Những năm gần đây, cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của khu vực đô thị và sự bộc lộ ngày càng rõ những bất cập của thể chế “Thị lãnh đạo huyện”, vấn đề cải cách thể chế chính quyền đô thị của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của giới học giả. Ở Trung Quốc, chính quyền đô thị thường được hiểu là tất cả các cơ quan nhà nước ở đô thị, bao gồm cơ quan quyền lực, cơ quan hành chính và cơ quan tư pháp. Tuy nhiên bài viết này sẽ trình bày khái quát hiện trạng và giới thiệu một số quan điểm cải cách chính quyền đô thị ở Trung Quốc từ cách tiếp cận về chính quyền đô thị của Việt Nam, tức chỉ gồm 2 hệ thống là cơ quan quyền lực và cơ quan hành chính nhà nước ở đô thị.
1. Khái quát về chế độ tổ chức chính quyền đô thị ở Trung Quốc
Điều 30 Hiến pháp Trung Quốc hiện hành phân chia đơn vị hành chính như sau: “1. Nước chia thành tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương; 2. Tỉnh, khu tự trị chia thành châu tự trị, huyện, huyện tự trị, thành phố; 3. Huyện, huyện tự trị chia thành hương, hương dân tộc, trấn.
Thành phố trực thuộc trung ương và thành phố tương đối lớn chia thành khu, huyện. Châu tự trị chia thành huyện, huyện tự trị, thành phố. Khu tự trị, châu tự trị, huyện tự trị đều là địa phương dân tộc tự trị.”
Nếu theo đúng tinh thần quy định này, chính quyền địa phương Trung Quốc được tổ chức thành 3 cấp (Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương – Huyện, khu – Hương, trấn); một số được chia thành 4 cấp (Tỉnh, khu tự trị - Thành phố tương đối lớn, châu tự trị - Huyện, huyện tự trị, thành phố - Hương, trấn), cách phân chia như thế này tồn tại ở những địa phương có thành phố tương đối lớn và châu tự trị.
Tuy nhiên do Trung Quốc chủ trương thực hành rộng rãi thể chế “Thị lãnh đạo huyện”. “Thành phố tương đối lớn” đã bị biến thành một cấp trung gian trong chính quyền địa phương Trung Quốc. Điều này đã dẫn đến chính quyền địa phương Trung Quốc trên thực tế lại được phân chia thành 4 cấp, kết cấu tầng thứ quản lý bị phức tạp hóa. Hiện nay, đại đa số tỉnh và khu tự trị được chia thành 4 cấp; số ít tỉnh, khu tự trị có cả chế độ 3 cấp và 4 cấp, tức trong tỉnh hoặc khu tự trị có huyện do tỉnh hoặc khu tự trị trực tiếp quản lý, có huyện do thành phố tương đối lớn hoặc châu tự trị quản lý, ví dụ Tân Cương, Hồ Bắc, Liêu Ninh...; chỉ còn tỉnh Hà Nam là hoàn toàn tổ chức theo 3 cấp, tức tất cả các huyện đều do tỉnh trực tiếp quản lý.
Xét ở góc độ phân cấp hành chính, đô thị Trung Quốc tồn tại 3 cấp là: 1, Thành phố trực thuộc trung ương có cấp bậc hành chính ngang với tỉnh và khu tự trị, là đơn vị hành chính địa phương cấp một. 2, Thành phố tương đối lớn, bao gồm thành phố cấp phó tỉnh và thành phố cấp địa khu, là đơn vị hành chính địa phương cấp hai, ở dưới tỉnh và trên huyện. 3,Thành phố cấp huyện, có cấp bậc hành chính tương đương với huyện, là đơn vị hành chính địa phương cấp ba, chỉ trên đơn vị hành chính địa phương cấp cơ sở là hương, trấn. Xét ở góc độ cấp bậc hành chính nhìn trong nội bộ hệ thống đô thị, nó có 4 cấp theo thứ tự trên dưới là: 1, Thành phố trực thuộc Trung ương; 2, Thành phố cấp phó tỉnh; 3, Thành phố cấp địa khu; 4, Thành phố cấp huyện. Năm 1978, sau khi Trung Quốc thực hiện cải cách mở cửa, giữa cấp tỉnh và cấp địa khu lại có thêm khu hành chính cấp phó tỉnh, đây thực chất là một thành phố cấp địa khu, cũng có khi là thành phố trực thuộc tỉnh mà có diện tích tương đối rộng nên được Quốc vụ viện phê chuẩn thành lập1. Khác biệt giữa thành phố cấp phó tỉnh và thành phố cấp địa khu thể hiện ở chỗ, thành phố cấp phó tỉnh ở phương diện xây dựng và chấp hành quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội có quyền hạn tương đương với cấp tỉnh. Do trấn ở Trung Quốc không được hưởng quy chế pháp lý đô thị, vì vậy, thành phố cấp huyện (thị tương đương với thị xã) là đô thị cấp cơ sở trong hệ thống đô thị Trung Quốc.
Tính đến tháng 3/2013, tổng số đô thị của Trung Quốc là 663. Trong đó, đô thị trực thuộc Trung ương: 4; đô thị cấp phó tỉnh: 15; đô thị cấp địa khu: 2742; đô thị cấp huyện: 3703. Các đô thị trực thuộc trung ương, đô thị cấp phó tỉnh và đa số đô thị cấp địa khu đều chia thành các khu ở khu vực nội thành và quản lý một số huyện xung quanh. Khu và các đô thị chưa đủ tiêu chuẩn lập khu chia thành một số khu phố để tiện quản lý, tuy nhiên khu phố không phải là đơn vị hành chính hiến định. Cấp bậc hành chính của huyện, khu thuộc đô thị trực thuộc trung ương so với khu, huyện thông thường cao hơn một cấp, ngang với cấp bậc của thành phố cấp địa khu.
2. Thực trạng thể chế chính quyền đô thị Trung Quốc
Trên cơ sở chế độ tổ chức đơn vị hành chính đô thị, bộ máy chính quyền đô thị Trung Quốc được thiết lập cụ thể như sau:
2.1. Cơ cấu tổ chức theo chiều dọc của chính quyền đô thị Trung Quốc
Nhìn theo chiều dọc, cơ cấu tổ chức chính quyền tại khu vực nội thành của các thành phố Trung Quốc tồn tại hai loại hình thể chế là thể chế “Hai cấp chính quyền, ba cấp quản lý” và thể chế “Một cấp chính quyền, hai cấp quản lý”. Thể chế “Hai cấp chính quyền, ba cấp quản lý” tồn tại ở các đô thị lớn có lập khu. Ở các đô thị này, cấp thành phố và cấp khu đều thiết lập một cấp chính quyền hoàn chỉnh, gồm đủ Đại hội đại biểu nhân dân (thường gọi tắt là Nhân đại) và hành chính địa phương, trong đó chính quyền cấp khu là chính quyền cơ sở. Tại các khu phố thuộc khu không thiết lập cấp chính quyền mà chỉ bố trí một số Phòng công tác khu phố với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước đại diện hành chính cấp khu, do hành chính cấp khu phân công đóng trên địa bàn, thi hành một số quyền hạn do hành chính cấp khu trao.
Thể chế “Một cấp chính quyền, hai cấp quản lý” là loại kết cấu tổ chức có ở các thành phố chưa đạt tiêu chuẩn lập khu. Các khu phố trong thành phố được bố trí một số Phòng công tác khu phố với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước đại diện của hành chính cấp thành phố, do hành chính cấp thành phố phân công đóng trên địa bàn, thi hành một một số quyền hạn do hành chính cấp thành phố trao. Mô hình này có nhiều nét tương đồng với mô hình chính quyền ở các thị xã, thành phố thuộc tỉnh đang thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân phường ở Việt Nam hiện nay.
Cơ cấu tổ chức chính quyền tại khu vực ngoại thành của các thành phố Trung Quốc tồn tại hai loại hình thể chế là thể chế “Ba cấp chính quyền”, tức chính quyền thành phố - chính quyền huyện – chính quyền hương trấn ở các đô thị lớn có quản lý huyện và thể chế “Hai cấp chính quyền”, tức chính quyền thành phố - chính quyền hương, trấn ở các đô thị cấp huyện.
2.2. Cơ cấu tổ chức theo chiều ngang của chính quyền đô thị Trung Quốc
Kết cấu tổ chức theo chiều ngang ở mỗi cấp chính quyền gồm Nhân đại và hành chính các cấp. Nhân đại là cơ quan quyền lực nhà nước. Nhân đại ở đô thị trực thuộc trung ương và đô thị thiết lập khu do Nhân đại dưới một cấp bầu ra, tức là được hình thành thông qua bầu cử gián tiếp. Nhân đại ở đô thị không thiết lập khu và các khu thuộc đô thị thiết lập khu do cử tri trực tiếp bầu ra. Nhân đại cấp thành phố và cấp khu có nhiệm kỳ mỗi khóa là 5 năm, mỗi năm ít nhất họp 1 lần. Tổng số đại biểu Nhân đại ở đô thị trực thuộc trung ương không vượt quá 1000 người, đô thị thiết lập khu không quá 650 người, đô thị không lập khu và khu không quá 450 người. Tại mỗi kỳ họp, Nhân đại cử hành phiên họp dự bị bầu ra Chủ tịch và các Phó Chủ tịch, quyết định thông qua chương trình hội nghị và các việc chuẩn bị khác. Căn cứ quy định của Luật Tổ chức cơ quan hành chính và Đại hội đại biểu nhân dân các cấp địa phương, Nhân đại thành phố trực thuộc Trung ương, thành phố thiết lập khu căn cứ nhu cầu có thể thành lập các Ủy ban chuyên môn như Ủy ban pháp chế (hoặc chính pháp), Ủy ban kinh tế tài chính, Ủy ban y tế văn hóa khoa học giáo dục; Nhân đại các thành phố đều thiết lập Ủy ban thường vụ.
Trên thực tế, tất cả các thành phố trực thuộc trung ương và thành phố thiết lập khu đều thành lập Ủy ban chuyên môn. Ủy ban chuyên môn chịu sự lãnh đạo của Nhân đại; trong thời gian Nhân đại không họp, Ủy ban chuyên môn chịu sự lãnh đạo của Ủy ban thường vụ Nhân đại. Ủy ban chuyên môn gồm có Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm và ủy viên; thành viên của Ủy ban chuyên môn do Đoàn Chủ tịch đại hội đề cử, đại hội thông qua. Ủy ban chuyên môn dưới sự lãnh đạo của Nhân đại và Ủy ban thường vụ Nhân đại tổ chức nghiên cứu, thẩm tra và khởi thảo các đề án liên quan; đối với những vấn đề thuộc phạm vi thẩm quyền của Nhân đại và Ủy ban thường vụ và liên quan đến Ủy ban, tiến hành điều tra, nghiên cứu, đề xuất, kiến nghị.
Ủy ban thường vụ Nhân đại là cơ quan thường trực của Nhân đại, thi hành quyền lực của Nhân đại trong thời gian không họp, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Nhân đại; chủ trì phiên họp dự trù trước mỗi kỳ họp của Nhân đại. Ủy viên Ủy ban thường vụ Nhân đại thành phố trực thuộc trung ương và thành phố thiết lập khu do Nhân đại cùng cấp bầu ra trong số các đại biểu, gồm Chủ nhiệm, một số Phó Chủ nhiệm, Tổng Bí thư, một số ủy viên. Ủy viên Ủy ban thường vụ Nhân đại thành phố không thiết lập khu và Ủy ban thường vụ Nhân đại khu do Nhân đại cùng cấp bầu ra trong số các đại biểu, gồm Chủ nhiệm, một số Phó chủ nhiệm và các ủy viên. Ủy viên Ủy ban thường vụ Nhân đại không thể đảm nhiệm chức vụ trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tư pháp đô thị. Số lượng ủy viên Ủy ban thường vụ Nhân đại thành phố trực thuộc trung ương từ 35 - 65 người; thành phố thiết lập khu từ 19 - 41 người, thành phố có số dân vượt quá 8 triệu không quá 51 người; khu và thành phố không lập khu có 15 - 27 người, thành phố không lập khu số dân vượt quá 1 triệu người không quá 35 người. Hội nghị Ủy ban thường vụ do Chủ nhiệm triệu tập, họp ít nhất 1 lần trong 2 tháng. Ủy ban thường vụ Nhân đại các cấp được quyết định bổ nhiệm hoặc cách chức đối với người đảm nhiệm chức trưởng, phó của chính quyền cấp đó; căn cứ vào đề cử người đứng đầu chính quyền các cấp, quyết định bổ nhiệm hoặc cách chức đối với người quản lý các ban ngành trực thuộc dưới chính quyền cấp đó4.
Trình tự thành lập, cơ cấu tổ chức của Nhân đại, Ủy ban thường vụ, các Ủy ban chuyên môn của Nhân đại ở các cấp đô thị cơ bản là giống nhau; chỉ có khác biệt về số lượng đại biểu, quy mô tổ chức và biên chế nhân viên căn cứ trên sự khác biệt về địa vị và quy mô đô thị. Trên danh nghĩa, Nhân đại trong hệ thống cơ quan nhà nước ở đô thị có địa vị pháp lý tối cao, là nguồn gốc trực tiếp của quyền tư pháp và quyền hành pháp. Cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp đô thị đều do Nhân đại sản sinh, chịu trách nhiệm trước Nhân đại và chịu sự giám sát của nó. Nhưng trên thực tế, quyền hạn của Nhân đại địa phương nói chung và đô thị nói riêng ở Trung Quốc vẫn còn những hạn chế nhất định. Nhân đại hoàn toàn không phải là một người thiết kế và người quản lý chủ động, mà là một người xác nhận và phê chuẩn. Rất nhiều quyết định, hoạt động của Nhân đại đều bắt buộc dựa trên đề án, kiến nghị của cơ quan hành chính các cấp. Nhân đại có thể phủ quyết kiến nghị, đề án mà cơ quan hành chính nhà nước, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân đề ra nhưng lại không thể tự mình đề ra đề án thay thế. Nhân đại có thể bãi bỏ mệnh lệnh hoặc quyết định không thích hợp của cơ quan hành chính nhà nước nhưng lại không thể trực tiếp sửa đổi mệnh lệnh hoặc quyết định của cơ quan hành chính nhà nước. Nhân đại và cơ quan thường vụ của nó ở các đô thị trực thuộc Trung ương, đô thị cấp phó tỉnh, đô thị là tỉnh lỵ, đô thị cấp địa khu tương đối lớn được Quốc vụ viện phê chuẩn, có thể ban hành văn bản pháp quy có tính địa phương. Nhân đại ở đô thị cấp huyện và cơ quan thường vụ của nó có quyền thông qua nghị quyết để chấp hành pháp luật và pháp quy có tính địa phương.
Chính quyền nhân dân đô thị được xác định là cơ quan chấp hành của Nhân đại đô thị và là cơ quan hành chính nhà nước ở đô thị. Với tư cách là cơ quan chấp hành, cơ quan hành chính nhà nước phải chấp hành nghị quyết của Nhân đại đô thị và cơ quan thường vụ của nó, đồng thời chịu trách nhiệm và báo cáo công tác, tiếp thu sự lãnh đạo, giám sát của các cơ quan này. Chính quyền nhân dân phải chấp hành mệnh lệnh và quyết định của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước cơ quan hành chính nhà nước cấp trên, đồng thời phục tùng sự lãnh đạo thống nhất của Chính phủ trung ương.
Chính quyền nhân dân cấp thành phố và cấp khu căn cứ nhu cầu công tác và nguyên tắc tinh gọn, thiết lập các cơ quan chuyên môn cần thiết như Cục, Sở, Ủy ban, Phòng, ngoài ra còn có một số cơ cấu trực thuộc. Các đô thị lớn của Trung Quốc thường có từ 40 - 50 cơ quan chuyên môn; các đô thị cấp huyện cũng thường có từ 30 - 40 cơ quan. Chính quyền nhân dân ở đô thị trực thuộc trung ương và đô thị có lập khu do Thị trưởng, Phó Thị trưởng, Tổng Bí thư và người đứng đầu các ban, ngành cấu thành. Cơ quan hành chính nhà nước ở đô thị không lập khu do Thị trưởng, Phó Thị trưởng và người đứng đầu các ban, ngành cấu thành. Chính quyền nhân dân cấp khu do Khu trưởng, Phó khu trưởng và người đứng đầu các ban, ngành cấu thành. Thị trưởng, Phó Thị trưởng, Khu trưởng, Phó khu trưởng do Nhân đại bầu ra. Chính quyền nhân dân ở đô thị hoạt động theo chế độ thủ trưởng. Thị trưởng chịu trách nhiệm toàn diện đối với toàn bộ công tác của Chính quyền nhân dân, có quyền lãnh đạo, quyền quyết định, quyền đề cử nhân sự và quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm. Chính quyền nhân dân đô thị hoạt động qua hình thức Hội nghị toàn thể và Hội nghị Ủy ban thường vụ. Hội nghị toàn thể do toàn thể thành viên Chính quyền nhân dân cấu thành. Hội nghị thường vụ Chính quyền nhân dân ở đô thị trực thuộc trung ương, đô thị có lập khu do Thị trưởng, Phó Thị trưởng và Tổng bí thư cấu thành; Hội nghị thường vụ Chính quyền nhân dân đô thị không lập khu và khu phân biệt do Thị trưởng, Phó thị trưởng hoặc Khu trưởng, Phó khu trưởng cấu thành. Mô hình cơ bản trong cơ cấu Chính quyền nhân dân ở các cấp đại thể giống nhau.
Chức năng và quyền hạn hành chính của Chính quyền nhân dân đô thị Trung Quốc căn cứ vào các quy định pháp luật liên quan, bao gồm sáu phương diện chính là: 1, Quyền chấp hành hành chính; 2, Quyền quản lý các việc công cộng trong khu vực hành chính; 3, Quyền quyết định các biện pháp hành chính; 4, Quyền giám sát hành chính; 5, Quyền nhân sự hành chính, 6, Quyền bảo hộ hành chính. Tuy nhiên, do thực hiện “thành hương hợp trị”, nội dung quản lý cụ thể của chính quyền đô thị Trung Quốc khá phức tạp, nó bao gồm mọi lĩnh vực từ công nghiệp, thương nghiệp, thuế vụ, tài chính, vệ sinh môi trường, y tế, giáo dục, khoa học kỹ thuật, văn hóa, thể dục thể thao, quy hoạch, xây dựng đô thị, dân chính, công an, hành chính tư pháp cho đến nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp.... Chính quyền đô thị không chỉ quản lý đô thị mà còn cả quản lý nông thôn; vừa thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khoa học kỹ thuật, giáo dục, văn hóa đô thị vừa thúc đẩy phát triển sự nghiệp xã hội và kinh tế nông thôn; vừa giải quyết vấn đề bùng nổ dân số, thiếu hụt năng lượng, ô nhiễm môi trường, ùn tắc giao thông, nhu cầu bức xúc về nhà ở, việc làm... mà quá trình phát triển đô thị phải đối mặt, vừa phải làm tốt việc bảo hộ đất canh tác nông nghiệp, bảo hộ cân bằng sinh thái...
3. Những vấn đề chủ yếu trong thể chế tổ chức chính quyền đô thị Trung Quốc
3.1. Bất cập của việc thực hiện thể chế “Thị lãnh đạo huyện”
Thể chế “Thị lãnh đạo huyện” trong điều kiện lịch sử đặc thù của Trung Quốc được đánh giá là đã phát huy những tác dụng tích cực nhất định. Tuy nhiên nó được coi là thể chế mang màu sắc của cơ chế kế hoạch, ngày càng bộc lộ nhiều vấn đề không thích ứng với cơ chế thị trường. Cụ thể là: 1, Do ưu thế lãnh đạo, đô thị thường xâm chiếm nông thôn và chèn ép lợi ích nông thôn, làm trầm trọng hơn mâu thuẫn và sự cạnh tranh không công bằng giữa đô thị với nông thôn, hình thành cái gọi là “Thị ép huyện”, “Thị kẹp huyện”, “Thị vắt huyện”. 2, Năng lực ảnh hưởng, dẫn dắt của đô thị đối với kinh tế khu vực nông thôn mà nó quản lý trên thực tế không đạt như mong muốn. Chính quyền đô thị thường đặt trọng tâm phát triển vào khu vực nội thành và một số khu vực trọng điểm, đối với khu vực nông thôn thường ít được chú trọng. 3, Đô thị và nông thôn là hai khu vực bất đồng, đô thị và nông thôn hợp trị không có lợi cho việc quản lý dựa trên đặc điểm riêng biệt của đô thị và nông thôn. Chính quyền đô thị vì thế bắt buộc xử lý rất nhiều việc thuộc lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn không hề quen thuộc. 4, Gia tăng tầng nấc quản lý, giảm hiệu suất, tăng chi phí đầu tư quản lý.
3.2. Chính quyền mang tính toàn năng, bao biện làm thay
Các học giả Trung Quốc đều thống nhất cho rằng thể chế quản lý đô thị Trung Quốc hiện nay vẫn mang sắc thái đơn trung tâm rất mạnh, vai trò của các chủ thể quản lý ngoài nhà nước tương đối mờ nhạt. Chức năng của chính quyền chuyển biến chưa đồng bộ và chưa thích ứng với yêu cầu của nền kinh tế thị trường, không phù hợp với kết cấu ngày càng đa nguyên hóa của xã hội đô thị. Chính quyền đô thị còn quản rất nhiều việc không nên quản, quản không tốt, quản không nổi, trong khi vai trò giám sát và quản lý thị trường, quản lý xã hội và lĩnh vực dịch vụ công lại chưa thi hành đầy đủ. Nhìn từ quan hệ chính quyền với thị trường, tác dụng của cơ chế thị trường chưa đạt được sự phát huy cần có, các ban ngành còn tham dự nhiều vào quản lý doanh nghiệp, hiện tượng chính quyền làm thay doanh nghiệp chưa được giải quyết triệt để; ở một số lĩnh vực có tính doanh lợi chính quyền còn trực tiếp kinh doanh, tranh lợi với dân; năng lực điều khống vĩ mô yếu. Từ quan hệ chính quyền với xã hội, sự chuyển dịch chức năng từ chính quyền ra xã hội chậm chạp, các tổ chức phi chính phủ, công dân chưa được tạo điều kiện phát huy vai trò trong quản lý đô thị tương xứng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ và năng lực tự trị ngày càng đề cao của họ. Mô hình chính quyền ôm đồm, bao biện về chức năng, nhiệm vụ này được các học giả Trung Quốc gọi là mô hình chính quyền toàn năng, hay còn gọi là mô hình chính quyền vô hạn.
3.3. Cơ cấu tổ chức cồng kềnh, bất hợp lý
Sau cải cách mở cửa đến nay, Trung Quốc đã tiến hành bốn lần cải cách chính quyền địa phương, giành được một số thành tựu nhất định. Nhưng hiện tượng cơ cấu cồng kềnh, bố trí dập khuôn từ trên xuống dưới, người nhiều việc ít vẫn còn tương đối nghiêm trọng. Trong bộ máy cơ quan hành chính nhà nước ở đô thị, cơ cấu quản lý kinh tế bố trí quá nhiều, cơ cấu cung cấp dịch vụ và sản phẩm công ít; bộ phận đảm nhiệm chức năng chính quyền địa phương thông thường nhiều, bộ phận gánh vác chức năng chuyên môn thành thị ít; cơ cấu lâm thời nhiều làm yếu đi vai trò và sự phát huy chức năng bình thường của các cơ cấu chuyên môn. Trong bộ máy các ngành, cơ cấu nội bộ thiết kế quá nhiều, tỷ trọng cơ cấu chuyên môn nghiệp vụ so với cơ cấu phụ trợ và cơ cấu phục vụ bản thân thiếu hợp lý. Thông thường những cơ cấu phụ trợ và phục vụ như văn phòng, tổ chức nhân sự, tuyên truyền, giáo dục, cán bộ lão thành, công đoàn... luôn vượt quá 1/3 cơ cấu nội bộ của mỗi cơ quan. Việc thiết kế quá nhiều cơ cấu nội bộ cũng đã dẫn đến tỷ lệ nhân viên cơ quan mất cân bằng, lãnh đạo nhiều nhân viên ít, nhân viên phụ trợ nhiều nhân viên nghiệp vụ ít, rất khó phát huy tốt vai trò cần có của các ngành.
3.4. Chức trách không rõ ràng; quản lý cát cứ; quan hệ không thông thuận
Pháp luật Trung Quốc hiện hành chưa có quy định riêng về chức trách, quyền hạn của chính quyền đô thị, về cơ bản giống với chức trách, quyền hạn của chính quyền địa phương thông thường. Nhìn ở mức độ quy phạm, một mặt, phân định chức trách của chính quyền cấp thành phố với chính quyền cấp trên không rõ ràng, chính quyền thành phố rất nhiều việc có quyền không có trách nhiệm, có trách nhiệm không có quyền. Mặt khác, phân định chức trách, quyền hạn trong nội bộ hệ thống chính quyền đô thị chưa hợp lý. Chính quyền cấp thành phố - thể hiện tập trung ở Chính quyền nhân dân, còn nắm nhiều việc lẽ ra cần do Chính quyền nhân dân cấp khu thực hiện hoặc ngược lại. Chức trách của Chính quyền nhân dân cấp khu và phòng công tác khu phố chưa hoàn thiện, thường thường là trách nhiệm lớn mà quyền lực nhỏ, nhiệm vụ nhiều nhưng lợi ích ít, nguồn lực được trao không tương xứng với trách nhiệm. Nhìn từ quan hệ công tác và cơ chế vận hành, chế độ sở hữu ngành khép kín trong thời kỳ kinh tế kế hoạch vẫn để lại cho Trung Quốc những dấu ấn nặng nề ở việc quản lý phân quyền cát cứ, trở ngại việc xúc tiến quản lý đa ngành và sự liên hiệp, phối hợp vượt ngành nghề, vượt khu vực. Thêm vào đó, cơ cấu tổ chức quá nhiều đương nhiên dẫn đến lĩnh vực quản lý bị chia cắt rời rạc, phân công quá chi tiết, chức năng chồng chéo, thiếu quan niệm toàn cục; mỗi bộ phận đều có quyền, nhưng đều không có quyền lực hoàn chỉnh, quyền lực quản lý công cộng bị chia cắt, vỡ vụn. Một loại chức năng có thể phân tán cho nhiều bộ phận quản lý, đối tượng quản lý của nhiều bộ phận cơ bản chồng chéo nhau dẫn đến có lợi thì tranh nhau làm, không lợi thì đùn đẩy nhau, rất khó phát huy sức mạnh quản lý tổng hợp, dễ rườm rà hóa thủ tục hành chính.
4. Một số quan điểm của giới học giả Trung Quốc về cải cách thể chế chính quyền đô thị
Với quan điểm lấy cải cách thể chế chính quyền đô thị thích ứng với kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa làm mục tiêu, lấy nhu cầu quản lý và chức năng đô thị làm xuất phát điểm, thúc đẩy sự ưu hóa chức năng và kết cấu quản lý đô thị, đề cao hiệu suất quản lý, nhiều học giả Trung Quốc đã kiến nghị một số phương hướng cải cách thể chế chính quyền đô thị, trọng điểm trước mắt là nhằm vào đổi mới hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, với các nội dung chính như sau:
4.1. Xóa bỏ thể chế “Thị lãnh đạo huyện”, thực hiện thành hương phân trị
Các học giả Trung Quốc qua phân tích thực chứng và tìm hiểu kinh nghiệm nước ngoài đã khẳng định đô thị nông thôn phân trị, thị huyện phân trị là quy luật phát triển cơ bản trong trị lý địa phương ở các nước phát triển. Họ đang kêu gọi Chính phủ Trung Quốc từ bỏ thể chế “Thị lãnh đạo huyện” chuyển sang thực hiện thành hương phân trị. Hiệu ứng tích cực của việc thực hiện thành hương phân trị nằm ở chỗ: 1, Sự điều chỉnh này sẽ có lợi cho cải biến thể chế có tính lấn át, chèn ép của thị đối với huyện, đưa thành thị và nông thôn về địa vị tương đối bình đẳng, không có quan hệ lãnh đạo và bị lãnh đạo, tạo điều kiện phát huy tính tích cực của mỗi bên; 2, Chuyên nghiệp hóa quản lý đô thị và nông thôn; thực hiện thị huyện phân trị, đối với đô thị trung tâm có tác dụng giải thoát, không cần tiếp tục sử dụng các nguồn lực vào việc quản lý khu vực nông thôn, đối với sự phát triển xã hội và kinh tế khu vực huyện có tác dụng cởi trói; 3, Có lợi cho việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, thông qua việc để cho hai hệ thống kinh tế bất đồng với những nguyên tắc phát triển kinh tế đặc thù của mỗi bên phát triển theo đúng xu thế của nó, xóa bỏ việc dùng quan niệm công nghiệp nắm sản xuất nông nghiệp, thông qua phương thức hành chính hóa đưa nông dân biến thành thị dân; 4, Hiện nay phân cấp hành chính địa phương Trung Quốc được chia thành 4 cấp Tỉnh – Thị - Huyện – Hương, là quốc gia có thiết kế tầng nấc hành chính địa phương nhiều nhất trên thế giới. Sau khi thực hành Thị huyện phân trị, tầng nấc hành chính địa phương Trung Quốc sẽ từ bốn giảm xuống ba cấp, việc đó không chỉ có lợi cho việc giảm thiểu chi phí đầu tư hành chính, tiết kiệm chi tiêu tài chính công, mà còn có lợi cho ưu hóa thể chế quản lý hành chính địa phương, làm hài hòa quan hệ trong hệ thống chính quyền địa phương.
Trên cơ sở thực hiện thành hương phân trị và thực hành chính sách đô thị hóa lấy quần thể đô thị làm mô thức phát triển chủ đạo, phát triển hài hòa đô thị lớn nhỏ và vừa, các học giả Trung Quốc đã tiến một bước đề xuất thiết kế lại chế độ tổ chức đơn vị hành chính đô thị. Nội dung chủ yếu là đề xuất giảm tiêu chuẩn thiết lập đô thị, trao cho huyện lỵ, trấn địa vị pháp lý của đô thị, tạo điều kiện mở rộng không gian phát triển cho các thành, trấn nhỏ; phân định lại ranh giới các đơn vị hành chính nội bộ và điều chỉnh kết cấu tầng thứ trong quản lý đô thị, khắc phục tình trạng biên độ co dãn quá lớn về dân số trong cùng một cấp hành chính, bảo đảm sự đồng đều tương đối về quy mô các đơn vị hành chính nội bộ đô thị, tránh sai biệt lớn về khối lượng công tác và hạng mục công việc quản lý, tạo cơ sở phân định hợp lý chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan chính quyền ở mỗi cấp đô thị5.
4.2. Giới định lại chức năng của chính quyền đô thị
Giới định lại chức năng của chính quyền đô thị thường được các học giả Trung Quốc xem xét từ hai phương diện. Thứ nhất là, sự phân định chức năng giữa chính quyền đô thị với thị trường và xã hội. Ở phương diện này cần giảm thiểu chức năng thống trị của chính quyền, tăng cường chức năng tự trị của xã hội. Thực tế chứng minh, trong bước chuyển từ thể chế kinh tế kế hoạch sang thể chế kinh tế thị trường, kết cấu chủ thể quản lý chuyển từ đơn trung tâm với vai trò lũng đoạn của chính quyền trong cung ứng dịch vụ, sản phẩm công sang đa trung tâm với sự tham dự ngày càng mạnh mẽ vào các lĩnh vực quản lý công của những chủ thể khác bên cạnh chính quyền. Quyền lực của chính quyền bắt buộc phải chuyển hướng từ vô hạn đến hữu hạn. Trên cơ sở đánh giá năng lực của xã hội, sự trưởng thành của cơ chế thị trường, Nhà nước phải rà soát lại, dứt khoát đem những việc chính quyền đô thị đang bao biện làm thay giao trả cho xã hội và thị trường; tạo điều kiện phát triển rộng rãi cơ chế đa trung tâm cung cấp dịch vụ sản phẩm công, huy động mạnh mẽ các tổ chức, cá nhân tham dự vào lĩnh vực quản lý công cộng. Hiện tại và tương lai, chính quyền đô thị phải đóng vai người lái thuyền chứ không phải là người chèo thuyền, chức năng chủ yếu của chính quyền là chỉ huy, định hướng, điều phối tính tích cực của thị trường và xã hội, thực hiện sự giám sát, điều hòa, phối hợp, bù đắp những khiếm khuyết của thị trường; chính quyền đô thị chỉ làm những việc mà thị trường và xã hội không làm được hoặc làm không tốt.
Phương diện thứ hai là xem xét chức năng của chính quyền đô thị trong phân định chức năng của cả hệ thống chính quyền. Theo nguyên lý thông thường, trong kết cấu quyền lực hành chính chính trị mô hình kim tự tháp của nhà nước, tầng cao cần phân phối nhiều hơn chức năng chính trị, những tầng thấp nên trao nhiều chức năng quản lý công cộng. Vì thế, chính quyền cơ sở cần được quy định chức năng quản lý công cộng nhiều hơn nhằm phục vụ tốt nhân dân trong phạm vi quản lý của mình, thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của quần chúng nhân dân. Chính quyền đô thị Trung Quốc tuy nằm ở những địa vị khác nhau, phân làm các cấp khác nhau nhưng đặc điểm của đô thị đã quyết định nó có tính quản lý trực tiếp, vì thế nó cần lấy chức năng tổ chức cung ứng dịch vụ công và quản lý công làm chủ. Dựa trên cơ sở này, cải cách chức năng chính quyền đô thị Trung Quốc cần đem trọng tâm chức năng từ quản lý kinh tế chuyển hướng sang chức năng cung ứng dịch vụ công và quản lý các vấn đề công cộng đô thị. Các chính quyền đô thị cần được trao quyền tự chủ hơn nữa trong các lĩnh vực: an toàn công cộng; vệ sinh môi trường; quy hoạch đô thị; phát triển các công trình công cộng; giáo dục; phúc lợi xã hội; dịch vụ sự nghiệp công, đảm bảo hình thành không gian tự chủ đủ rộng tạo điều kiện cho chính quyền đô thị, đặc biệt là chính quyền ở các đô thị lớn giữ vai trò quan trọng và tích cực trong cải cách, dưới sự tập quyền thích hợp của trung ương và chính quyền cấp trên. Trước mắt chức năng quản lý kinh tế vẫn cần thiết và chiếm vị trí quan trọng. Tuy nhiên, cùng với cải cách thể chế kinh tế chính trị ngày càng mạnh mẽ, cần tích cực giảm bớt chức năng này. Các nội dung quản lý kinh tế mà chính quyền đô thị lưu giữ phải có sự chuyển biến căn bản từ mục tiêu, nội dung đến phương thức. Đây là đặc thù của Trung Quốc do sự trưởng thành của cơ chế thị trường chưa đầy đủ, các loại tổ chức trung gian xã hội còn chưa kiện toàn.
4.3. Điều chỉnh hợp lý cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền
Cải cách cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền đô thị Trung Quốc lấy cải cách cơ quan hành chính đô thị làm trọng tâm. Mục tiêu hướng vào thu hẹp quy mô chính quyền nhân dân với phương châm thiết lập “chính phủ nhỏ, xã hội lớn”. Con đường cải cách là tổ chức lại các cơ quan chuyên môn theo hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Trọng điểm là điều chỉnh chức năng, ưu tiên cơ cấu tổ chức bộ máy trên nguyên tắc tinh giản, hiệu quả. Hiện nay, phân tích về nguyên nhân cồng kềnh của bộ máy chính quyền, các học giả Trung Quốc khái quát ở ba nguyên nhân chính là: 1, Chức năng chính quyền nhân dân được quy định không hợp lý làm nảy sinh cơ cấu thừa; 2, Do thực hành thể chế Thị lãnh đạo huyện dẫn đến chính quyền nhân dân đô thị phải quản lý một vùng nông thôn rộng lớn, vì vậy nó phải thiết kế nhiều cơ quan chức năng liên quan đến nông nghiệp và nông thôn; 3, Bộ máy nhà nước Trung Quốc được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân cấp quản lý về mặt hành chính. Giữa các cấp hành chính tồn tại quan hệ lệ thuộc, bắt buộc tiếp thu sự lãnh đạo của chính quyền cấp trên và phục tùng Quốc vụ viện. Chính quyền cấp dưới thường thường cần căn cứ vào sự phân công của trung ương hoặc chính quyền cấp trên đảm nhiệm rất nhiều nhiệm vụ vốn do trung ương hoặc chính phủ cấp trên thực hiện, mà không giống các nước theo thể chế tự trị địa phương, đều là dựa vào cơ cấu nhánh của chính quyền cấp trên để hoàn thành. Vì thế chính quyền đô thị không thể không thiết lập cơ cấu tương ứng để đảm nhận những loại nhiệm vụ này. Trong ba nguyên nhân trên, các cơ cấu thừa do việc quy định chức năng chính quyền không hợp lý là có khả năng cải cách lớn nhất. Đối với cơ cấu cồng kềnh do nguyên nhân thứ hai phải gắn liền với cải cách xóa bỏ thể chế thị lãnh đạo huyện, thực hiện thành hương phân trị. Đối với nguyên nhân thứ ba, liên quan đến sự điều chỉnh trọng đại về bố cục lợi ích và quyền lực giữa chính quyền trung ương và địa phương có khả năng cải cách không lớn.
Xuất phát từ quan điểm ổn định chính trị, các học giả Trung Quốc cơ bản nhất trí cho rằng trước mắt cần giải quyết vấn đề tổ chức bộ máy cồng kềnh ở hai nguyên nhân đầu. Trọng tâm cần làm là cắt giảm, sáp nhập, nhất thể hóa một số ngành quản lý kinh tế chuyên môn; xóa bỏ tư duy ngành đối ứng, trên có dưới có. Điều chỉnh lại cơ cấu nội bộ các ngành, giảm thiểu cơ cấu phụ trợ, phục vụ; phát triển cơ chế làm việc chuyên gia. Đồng thời với giảm thiểu cơ cấu quản lý kinh tế, cần tăng cường hóa các ngành dịch vụ công cộng như giáo dục, vệ sinh môi trường, giao thông, an toàn công cộng, công viên và vui chơi giải trí, giám sát chất lượng kỹ thuật...
4.4. Định vị đúng vị trí, vai trò của cơ quan chính quyền cấp khu và khu phố
Đô thị hiện đại là một chỉnh thể đa tầng, phức tạp, do nhiều nhân tố tự nhiên và nhân tố xã hội cấu thành. Trong chỉnh thể này, các khâu, các nhân tố đều có mối quan hệ với nhau, chế ước lẫn nhau đạt đến trình độ rất cao. Nếu một khâu hoặc nhân tố nào đó có vấn đề, sẽ ảnh hưởng đến sự vận hành bình thường của cả hệ thống. Trong mối quan hệ giữa khu và thành phố, khu là thực thể có kết cấu vật chất – xã hội thiếu sự độc lập, có tính lệ thuộc rất lớn; nó là sản phẩm của đô thị khi phát triển đến một trình độ nhất định, có khu mới xuất hiện và tồn tại. Những đặc điểm trên quyết định chính quyền cấp khu không phải là một cấp chính quyền địa phương có chức năng hoàn chỉnh. Nó yêu cầu công tác quản lý đô thị nói chung và phân quyền thành phố - khu nói riêng phải kiên trì nguyên tắc quản lý hệ thống, quyền lực tương đối tập trung, coi trọng hiệu ứng chỉnh thể. Tất nhiên cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội và sự phát triển tự thân của đô thị, khối lượng công việc quản lý gia tăng, chính quyền thành phố cần đem một phần công việc chuyển giao cho chính quyền khu. Có nghĩa là, trong phân định chức trách, quyền hạn giữa chính quyền thành phố và chính quyền khu cần lấy sự tập quyền tất yếu và phân quyền thích hợp để vừa bảo đảm sự phát triển chỉnh thể đô thị vừa phát huy đầy đủ vai trò hiệp trợ tích cực của chính quyền khu. Từ quan điểm lâu dài và toàn cục, chính quyền cấp thành phố nên chú trọng phân cấp quyền lực cho chính quyền cấp khu các công việc có tính sự vụ, tính phục vụ mà không phải là việc mang tính quyết sách, quy hoạch. Mức độ phân quyền của các khu nội thành cần nhỏ, khu ngoại thành có thể lớn hơn, mà huyện thuộc thành phố có tính độc lập thì cần càng lớn, không thiết kế một cách cào bằng. Những việc đã xác định có thể phân xuống cấp dưới nên chuyển giao triệt để, kèm theo đó là cấp nguồn lực tương xứng để thi hành nhiệm vụ.
Về vị trí, vai trò của Phòng công tác khu phố: Những năm gần đây, cùng với khối lượng công việc không ngừng gia tăng, đã có ý kiến đặt ra vấn đề đưa Phòng công tác khu phố trở thành một cấp chính quyền, đề xuất này dựa trên đặc điểm phạm vi quản lý lớn, dân số đông, nhiệm vụ nhiều của khu phố. Tuy nhiên, đa số học giả cho rằng, sự tồn tại của Phòng công tác khu phố trong tình hình Trung Quốc hiện nay là cần thiết, nhưng nên phát triển theo hướng thu gọn lại. Quan điểm này dựa trên các cơ sở sau: Thứ nhất, xuất phát từ tính chỉnh thể và yêu cầu quản lý tập trung của đô thị, nếu như đem một chỉnh thể có tính liên kết với nhau tương đối mạnh phân thành quá nhiều bộ phận tương đối độc lập, tất yếu sẽ gia tăng chi phí, giảm hiệu ứng và hiệu suất chỉnh thể. Thứ hai, thực tiễn quản lý đô thị ở các nước đã chứng minh, cơ cấu tổ chức nội đô thị không nên quá nhiều. Đô thị ở nước ngoài, trừ những đô thị lớn có chính quyền cấp khu (quận), thông thường đều chỉ tổ chức chính quyền một cấp. Các đô thị lập khu, dưới khu đều không tiếp tục thiết kế một cấp chính quyền hoàn chỉnh và cơ cấu phái sinh. Thứ ba, theo lý thuyết, việc thiết lập một cấp chính quyền cần trao cho nó chức năng tương đối hoàn chỉnh, không có chức năng tương đối hoàn chỉnh không nên trở thành một cấp chính quyền. Đặc điểm của đô thị đã quyết định chính quyền khu đã là một cấp chính quyền không có chức năng hoàn chỉnh, như vậy ở dưới nó lại thiết lập một cấp chính quyền, chức năng sẽ chỉ càng thêm không hoàn chỉnh. Cuối cùng, tăng thêm một cấp bậc, trong thực tiễn vận hành sẽ tạo ra rất nhiều xung đột và mâu thuẫn trên phương diện phân định quyền hạn và chia cắt lợi ích. Từ đó cho thấy, biến Phòng công tác khu phố thành một cấp chính quyền, về mặt lý luận là không thể thành lập, về mặt thực tiễn là không có nhu cầu tất yếu. Nhiệm vụ của Phòng công tác khu phố cần giảm tải thông qua chuyển giao cho thị trường và xã hội, nhất là các tổ chức tự trị ở khu phố.
4.5. Hoàn thiện chế độ quản lý và chế độ trách nhiệm; tăng cường pháp chế hóa quản lý đô thị
Thể chế hóa các quy định về tổ chức, chức năng, biên chế, quy trình công tác của chính quyền đô thị chính là một trong những nhiệm vụ đầu tiên của việc tăng cường pháp chế hóa quản lý đô thị. Trước mắt Trung Quốc cần nhanh chóng ban hành Luật chuyên ngành về tổ chức đô thị, xác lập quy phạm điều chỉnh đối với các vấn đề căn bản liên quan đến chính quyền đô thị như tính chất, địa vị, nhiệm vụ của đô thị; cơ cấu tổ chức, trách nhiệm, quyền hạn và chế độ công tác chủ yếu của chính quyền đô thị; chức trách, quyền hạn của nhân viên công tác thị chính; quy trình thẩm tra, chấp hành và thông qua quyết toán tài chính đô thị… Quy định rõ biên chế nhân viên công tác và quyền hạn quản lý biên chế. Thành lập và hoàn thiện chế độ trách nhiệm công tác từ Thị trưởng đến nhân viên thông thường thông qua việc quy định rõ thưởng phạt, khảo hạch, nghĩa vụ và quyền lợi cần có, trình tự và tiêu chuẩn công tác, trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi vị trí công tác. Hoàn thiện chế độ trách nhiệm công tác một mặt có lợi cho thúc đẩy sự chuyển biến tác phong công tác của cơ quan, đề cao hiệu suất công tác; mặt khác cũng có lợi cho việc tăng cường tính tích cực và chủ động của mỗi nhân viên, phát huy đầy đủ khả năng và thỏa mãn nhu cầu giá trị tự thân của họ. Ngoài ra cần xây dựng và kiện toàn quy phạm pháp luật, dùng hình thức pháp luật để quy phạm hành vi quản lý, phòng chống lạm dụng quyền lực hành chính.
Trong các đề xuất của giới học giả Trung Quốc, một vấn đề then chốt, xuyên suốt luôn được khẳng định là: Cải cách bắt buộc mở cửa, nếu như điều quan trọng của cải cách thể chế kinh tế là mở cửa ra thế giới thì cải cách thể chế chính quyền đô thị nói riêng và chính quyền địa phương nói chung là hướng về xã hội, về công dân. Nói cho cùng, chính quyền nhà nước xã hội chủ nghĩa lấy tôn chỉ là vì nhân dân phục vụ, tất cả đã vì nhân dân, còn có gì không thể công khai và mở cửa cho sự tham dự của công dân. Tăng cường công khai minh bạch đối với người dân là mục tiêu hướng tới của cải cách thể chế chính quyền nhân dân./.
ThS. Phùng Trọng Lượng - Sở Tư pháp tỉnh Phú Thọ
Ghi chú:
1. Chế độ Chính trị Trung Quốc - Doãn Trung Khanh, NXB Truyền bá ngũ châu, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
2. http://baike.baidu.com/view/115772.htm
3. http://baike.baidu.com/view/91960.htm.
4. Chế độ Chính trị Trung Quốc - Doãn Trung Khanh, NXB Truyền bá ngũ châu, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Trung Quốc so với Mỹ gần như tương đương về diện tích, gấp bốn lần về nhân khẩu nhưng kém gần 200 lần về số lượng đô thị, tiêu chuẩn quy mô nhân khẩu để thiết lập đô thị cao hơn mức trung bình các bang ở Mỹ 20 lần. Hiện Trung Quốc có nhiều đơn vị hành chính cấp khu nhân khẩu trên 50 vạn, có khu đạt gần trăm vạn, có khu lại chỉ dưới 5 vạn; có đô thị khoảng 20 vạn nhân khẩu lập Khu nhưng có đô thị nhân khẩu tương đương lại không, có Phòng công tác khu phố quản gần 10 vạn nhân khẩu nhưng có đô thị không đến 10 vạn nhân khẩu lại thiết lập nhiều Phòng công tác khu phố.
Tài liệu tham khảo:
1. Hiến pháp nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
2. Luật tổ chức Đại hội Đại biểu nhân dân và Chính phủ nhân dân các cấp địa phương nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
3. Luật bầu cử Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc và Đại hội Đại biểu nhân dân các cấp địa phương nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
4. Điều lệ quản lý biên chế và bố trí cơ cấu chính phủ nhân dân các cấp địa phương
5. Lý Hòa Trung. Nghiên cứu kết cấu và quy mô chính phủ địa phương Trung Quốc. Bắc Kinh: Nhà xuất bản Kshoa học, 2012.
6. Thẩm Vinh Hoa, Chung Vĩ Quân. Nghiên cứu con đường sáng tạo thể chế chính quyền địa phương Trung Quốc. Bắc Kinh: Nhà xuất bản Khoa học xã hội Trung Quốc, 2011.
7. Ngô Ái Minh, Chu Quốc Bân, Lâm Chấn. Chính trị và chính phủ Trung Quốc đương đại. Bắc Kinh: Nhà xuất bản Đại học nhân dân Trung Quốc, 2010.
8. Dương Hồng Sơn. Quản lý thị chính học. Bắc Kinh: Nhà xuất bản Đại học nhân dân Trung Quốc, 2010.
9. Trần Bính Thủy. Thị chính học. Bắc Kinh: Nhà xuất bản Khoa học môi trường Trung Quốc, 2010.
10. Lý Kỳ. Chuyển biến chức năng và sáng tạo thể chế quản lý chính phủ đô thị lớn Trung Quốc. Thượng Hải: Nhà xuất bản nhân dân Thượng Hải, 2010.
11. Lý Yến Lăng, Trần Đông Lâm. Khái lược thị chính học và án lệ. Bắc Kinh: Nhà xuất bản Đại học nhân dân Trung Quốc, 2009.
12, Nhậm Tiến. So sánh chế độ và chính phủ địa phương. Bắc Kinh: Nhà xuất bản Đại học Bắc Kinh, 2008.
13. Trần Bính Thủy. Nghiên cứu quản lý và phát triển thành thị hiện đại. Bắc Kinh: Nhà xuất bản Khoa học môi trường Trung Quốc, 2007.
14, Trần Kỳ Tinh. Nghiên cứu thể chế quản lý chính phủ đô thị lớn quốc tế - So sánh và sáng tạo. Thượng Hải: Nhà xuất bản nhân dân Thượng Hải, 2006.
15, Phan Tiểu Quyên. Cải cách thể chế quản lý thị chính: Lý luận và thực tiễn. Bắc Kinh: Nhà xuất bản Văn hiến Khoa học xã hội, 1998.