Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, việc đổi mới vai trò, chức năng, tinh gọn bộ máy nhà nước của các quốc gia được đặt ra như là một trong những ưu tiên quan trọng về chiến lược cải cách, đổi mới nhằm hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội bền vững và vì con người. Trong đó, bảo đảm cung ứng dịch vụ công mà cơ bản nhất là dịch vụ hành chính công, dịch vụ sự nghiệp công, dịch vụ công ích là một chức năng cơ bản, quan trọng của Nhà nước, đặc biệt là trong điều kiện thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. Để nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân và phát triển đất nước, Nhà nước cần nâng cao vai trò quản lý và phải trở thành chủ thể cung ứng đầy đủ các dịch vụ công cho người dân cả về số lượng, chất lượng, chi phí và thời gian. Chính vì vậy, việc học hỏi kinh nghiệm của các nước phát triển về vấn đề này là việc làm cần thiết, để từ đó rút ra được những mô hình phù hợp với thực tiễn hiện nay ở Việt Nam.
1. Vai trò, chức năng và nhiệm vụ của Chính phủ Canađa trong quản lý y tế và giáo dục
* Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của chính quyền các cấp:
Canađa là nước theo chế độ quân chủ lập hiến. Người đứng đầu Nhà nước là Nữ hoàng Anh được đại diện bởi một vị Toàn quyền người Canađa (do Thủ tướng Canađa đề nghị và được Nữ hoàng Anh chấp thuận); Thủ tướng và nội các do đảng nắm đa số hoặc liên minh đa số ghế tại Hạ viện cử ra. Quốc hội gồm Thượng viện và Hạ viện. Thượng nghị sĩ do Toàn quyền cử theo khuyến nghị của Thủ tướng. Hạ nghị sĩ được dân bầu trực tiếp, nhiệm kỳ 5 năm. Là một nhà nước liên bang, do vậy, việc quản lý và điều hành nền kinh tế không chỉ bởi một cấp chính quyền mà bởi các cấp chính phủ khác nhau. Sự đa dạng trong phân định cấp độ chính quyền khác nhau không chỉ bởi phạm vi về mặt địa lý (địa phương, vùng và quốc gia) mà còn bởi quyền và trách nhiệm của các cấp.
Hiện nay, Canađa có 13 chính quyền vùng, trong đó được phân thành chính quyền tỉnh bang và chính quyền khu tự trị1. Bên cạnh đó, Canađa có hàng nghìn chính quyền địa phương (local government), trong đó có các chính quyền thành phố/đô thị, hội đồng địa phương, các cơ quan (agencies, như: các hội đồng nhà trường, uỷ ban cảnh sát,…), và các bán - chính quyền vùng (semi-regional government; chẳng hạn như: các hạt).
Vai trò của chính quyền liên bang và chính quyền tỉnh bang của Canađa được phân định rất rõ tại Điều 91 và 92 của Hiến pháp năm 1867. Nhìn chung, chính quyền liên bang có thẩm quyền ban hành các đạo luật áp dụng chung cho toàn bộ quốc gia. Chính quyền liên bang đảm nhiệm vai trò chính đối với những vấn đề có liên quan tới quyền lợi chung của toàn bộ người dân Canađa, chứ không không phải là quyền lợi đơn thuần của một vùng hoặc một địa phương nào. Theo đó, chính quyền liên bang có nhiệm vụ trong những lĩnh vực: an ninh, quốc phòng quốc gia; chính sách đối ngoại; thương mại và giao thông liên tỉnh bang; điều hành ngành ngân hàng và tiền tệ; hình sự (criminal law). Tương tự, chính quyền tỉnh bang cũng có quyền tự trị và được giao quyền hạn, trách nhiệm trong một số lĩnh vực và là đại diện quyền lực chính trị cao nhất ở tỉnh bang. Chính quyền tỉnh bang có thẩm quyền ban hành các đạo luật áp dụng trong phạm vi của tỉnh bang và đảm nhiệm vai trò trong các lĩnh vực: đất đai của nữ hoàng, đất đai ban tặng (Crown land) và tài nguyên thiên nhiên; các dịch vụ xã hội (y tế, giáo dục,..); hành chính tư pháp; quyền sở hữu và quyền dân sự.
Nhiệm vụ giữa chính quyền liên bang và chính quyền tỉnh bang
Nhiệm vụ của liên bang
|
Nhiệm vụ của bang
|
Nhiệm vụ chung của liên bang và của tỉnh bang
|
- Thiết lập hoà bình, trật tự và Chính phủ tốt;
- Các hình thức thuế;
- Thương mại quốc tế và thương mại liên bang; viễn thông và giao thông;
- Ngành ngân hàng và tiền tệ;
- Các hiệp định đối ngoại;
- Hình sự và trại cải tạo;
- Nhập tịch;
- Bằng sáng chế, bản quyền;
- Những bộ tộc thổ dân Canađa (First Nations);
- Các quyền còn lại của CP;
- Quyền tuyên bố2;
- Quyền bác bỏ và quyền dành riêng3;
- Bảo hiểm thất nghiệp và hưu trí
|
- Công an, cảnh sát
- Đất đai của nữ hoàng, đất đai ban tặng và tài nguyên thiên nhiên;
- Lĩnh vực y tế;
- Giáo dục;
- Phúc lợi;
- Công trình địa phương (local works);
- Giao thông nội bộ tỉnh bang và kinh doanh;
- Hành chính tư pháp;
- Quyền sở hữu (bất động sản, động vật, phương tiện đi lại, trái phiếu, hàng hoá,…) và quyền dân sự (hợp đồng, tranh chấp lao động, tín dụng, con nuôi,...);
- Hợp tác xã và ngân hàng tiết kiệm.
|
- Nhập cư;
- Nông nghiệp;
- Hưu trí
|
Theo bảng trên cho thấy, trong một số lĩnh vực, cả chính quyền liên bang và chính quyền tỉnh bang đều cùng chia sẻ trách nhiệm. Khi có sự xung đột trong việc thực hiện cùng một nhiệm vụ thì theo Hiến pháp, chính quyền liên bang được giao trọng trách quyết định cao nhất.
Việc phân định nhiệm vụ giữa các cấp chính quyền cho thấy Canađa là nước liên bang có mức độ phân cấp khá cao. Nhiệm vụ và quyền hạn không tập trung ở chính quyền liên bang mà được phân xuống chính quyền tỉnh bang, trong đó chính quyền tỉnh bang kiểm soát các lĩnh vực quan trọng của chính sách công, cụ thể là y tế, giáo dục, phúc lợi. Mặc dù, chính quyền liên bang không được phép ban hành các đạo luật, quy định liên quan tới những lĩnh vực công quan trọng của tỉnh bang, song chính quyền liên bang có thể sử dụng “quyền lực chi tiêu” (spending power) để tác động tới các chính sách của tỉnh bang4. Cụ thể, chính quyền liên bang có thể chuyển hàng tỷ đôla hàng năm cho chính quyền bang để hỗ trợ hệ thống chăm sóc sức khoẻ ở bang nào đó. Chính quyền liên bang có thể đặt ra các điều kiện ràng buộc nếu tỉnh bang muốn nhận được số tiền hỗ trợ này.
Chính quyền địa phương và chính quyền khu tự trị là chính quyền cấp dưới (phụ thuộc) của chính quyền tỉnh bang và liên bang. Chính quyền khu tự trị đặt dưới sự quản lý của chính quyền liên bang. Tương tự, chính quyền địa phương là chính quyền cấp dưới của chính quyền tỉnh bang và vì vậy, chính quyền tỉnh bang có thể đơn phương xoá bỏ hoặc thành lập chính quyền địa phương, thay đổi chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương. Nhìn chung, chính quyền địa phương thực hiện các nhiệm vụ liên quan tới:
- Lập kế hoạch và phát triển địa phương (phát triển kinh tế, công nghiệp và các khu đô thị);
- Bảo vệ con người và tài sản (điều hành cảnh sát địa phương và dịch vụ chữa cháy);
- Giao thông địa phương (quản lý các phương tiện ô tô công cộng, tàu hoả, xây dựng và bảo dưỡng hệ thống đường thành phố/đô thị);
- Ngành phục vụ công cộng (quản lý hệ thống xả thải địa phương, xử lý nước và điện);
- Dịch vụ phúc lợi xã hội địa phương (y tế, thư viện, phương tiện giáo dục và dịch vụ hỗ trợ xã hội);
- Công viên, giải trí và văn hoá (phát triển và quản lý các công viên địa phương, khoảng không xanh, giải trí công cộng, các chương trình văn hoá và nghệ thuật địa phương, tổ chức sự kiện) .
Mặc dù có sự phân định nhiệm vụ khá rõ ràng giữa các cấp chính quyền song việc hợp tác, phối hợp giữa các cấp chính quyền trong quản lý, điều hành các vấn đề kinh tế - xã hội ở Canađa khá chặt chẽ. Ngay cả chính quyền địa phương cũng có mối quan hệ chặt chẽ với chính quyền liên bang. Chẳng hạn, chính quyền liên bang thường xuyên cung cấp tài chính cho địa phương để thực hiện các dự án phát triển cơ sở hạ tầng, tổ chức các sự kiện địa phương hoặc phát triển và thực thi các chương trình phúc lợi xã hội. Thêm vào đó, chính quyền liên bang cũng có thể hợp tác với chính quyền địa phương trong lĩnh vực chính sách nhà ở, hệ thống đường tàu, bến cảng,…
* Vai trò của chính quyền các cấp trong lĩnh vực y tế và giáo dục:
- Quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế: Bước ngoặt quan trọng về vai trò của nhà nước trong lĩnh vực y tế được kể đến khi Canađa bắt đầu thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân (khoảng năm 1960). Hiện nay, nhà nước đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực y tế chủ yếu trên hai khía cạnh: thiết lập quy định luật pháp cho hệ thống y tế (nguyên tắc hoạt động, cơ chế vận hành, tiêu chuẩn...) và tài trợ ngân sách nhà nước cho các dịch vụ khám chữa bệnh cơ bản cho toàn dân và các hoạt động khác.
Vai trò trực tiếp cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh của nhà nước ở Canađa chiếm rất ít. Nhà nước chỉ cung cấp dịch vụ cho một số đối tượng đặc thù như người thổ dân, quân nhân, cựu chiến binh. Việc cung cấp dịch vụ y tế ở Canađa chủ yếu do khu vực tư nhân đảm nhiệm, bao gồm bệnh viện tư nhân, phòng khám tư và các bác sỹ tư.
Vai trò của nhà nước trong lĩnh vực y tế được thể hiện trong Hiến pháp Canađa. Trong đó, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp liên bang và cấp tỉnh bang đều có vai trò nhất định. Về cơ bản, chính quyền liên bang có vai trò hình thành các quy định, chuẩn mực và các nguyên tắc hoạt động cơ bản của hệ thống y tế trên cả nước còn các tỉnh bang có nghĩa vụ phải triển khai thực hiện các nguyên tắc đó. Các Nguyên tắc này hiện nay được quy định trong Đạo luật Y tế Canađa, bao gồm 5 nguyên tắc sau:
Chính quyền liên bang còn có các trách nhiệm khác liên quan đến việc thiết lập những quy định, tiến hành các hoạt động hoặc ban hành chính sách khuyến khích những hoạt động có liên quan chặt chẽ đến bảo vệ sức khỏe của người dân như quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm, phòng và chữa bệnh lây nhiễm, đào tạo nhân sự cho ngành y tế, chính sách miễn giảm thuế…
Vai trò của chính quyền tỉnh bang và khu tự trị bao gồm: Triển khai bảo hiểm y tế toàn dân; lên kế hoạch và thực hiện chi tiêu ngân sách cho bệnh viện và các cơ sở y tế và các dịch vụ y tế cung cấp bởi bác sĩ và chuyên gia y tế; lên kế hoạch và thực hiện các sáng kiến bảo vệ sức khỏe cộng đồng; đàm phán giá cả cung cấp các dịch vụ y tế với các hiệp hội liên quan như Hiệp hội Bác sĩ Canađa, Hiệp hội Y tá, Hiệp hội Dược sĩ Canađa...
Các bệnh viện ở Canađa hầu hết hoạt động dưới hình thức tư nhân (cộng đồng) không vì lợi nhuận. Bệnh viện được điều hành bởi Ban quản lý cộng đồng hoặc là do tổ chức tình nguyện của cộng đồng. Về bản chất, các bệnh viện này không hoàn toàn là tư nhân bởi vì Nhà nước vẫn giám sát thông qua việc đưa ra các quy định và cung cấp ngân sách cơ bản cho bệnh viện hoạt động và giám sát chi tiêu ngân sách của bệnh viện. Chính quyền địa phương có quyền áp đặt các dịch vụ do bệnh viện cung cấp và thậm chí đóng cửa bệnh viện. Ví dụ, tại tỉnh bang Ontario của Canađa có 211 bệnh viện trong đó hầu hết là bệnh viện cộng đồng, không vì lợi nhuận. Các bệnh viện có thể tự do thiết kế và tổ chức vận hành bệnh viện. Hầu hết các bệnh viện đều có Ban Giám đốc. Ban này có quyền và chức năng vận hành các hoạt động thường ngày của bệnh viện như chi tiêu tài chính, lập kế hoạch, chăm sóc bệnh nhân,... Tuy nhiên, chính quyền tỉnh bang Ontario có thể can thiệp khá mạnh vào hoạt động của Ban Giám đốc/Ban quản lý và của bệnh viện. Bởi vì ngân sách hàng năm của bệnh viện do chính quyền địa phương cấp. Ngân sách này được quyết định dựa vào nhiều yếu tố và chính quyền có quyền tăng hoặc giảm ngân sách. Bệnh viện phải hoạt động theo quy định của tỉnh bang, bao gồm Điều luật Bệnh viện. Bộ Y tế cũng thiết kế và ban hành các chính sách cho bệnh viện liên quan đến dịch vụ bệnh viện cung cấp và các quyết định về tài chính của họ. Bệnh viện phải nộp kế hoạch hoạt động hàng năm cho chính quyền địa phương và phải có sự chấp thuận của chính quyền nếu có sự thay đổi so với kế hoạch đó.
Ngoài những bệnh viện hoạt động kiểu cộng đồng như trên, Canađa cũng có những bệnh viện tư nhân thật sự, ra đời trước những năm chính quyền áp dụng chính sách bảo hiểm y tế cơ bản toàn dân. Vì vậy, các bệnh viện này vẫn được Chính phủ cho phép cung cấp các hoạt động dịch vụ y tế và được Chính phủ cấp ngân sách hàng năm. Các bệnh viện tư này hoạt động theo Điều luật riêng về Bệnh viện tư nhân.
Những năm gần đây, nhiều địa phương huy động thêm sự tham gia của khu vực tư nhân thông qua chương trình hợp tác công tư. Theo chương trình này, công ty tư nhân xây dựng cơ sở vật chất bệnh viện sau đó cho thuê cơ sở vật chất đó cho Ban quản lý bệnh viện. Đây là hình thức khác với các bênh viện cộng đồng bởi cơ sở vật chất của bệnh viện cộng đồng là do Chính phủ đầu tư. Ở đây, tư nhân sở hữu cơ sở vật chất của bệnh viện và cho Ban quản lý bệnh viện thuê và có trách nhiệm duy tu công trình đó.
Sự tham gia của khu vực tư nhân trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ còn ở các hoạt động bên ngoài bệnh viện như dịch vụ chăm sóc sức khỏe người già. Đây là những hoạt động vì lợi nhuận và công ty có thể thỏa thuận giá với khách hàng. Ngoài ra, nhiều tỉnh bang cho phép các hoạt động cung cấp dịch vụ y tế vì lợi nhuận theo giá thị trường. Ví dụ: người dân muốn được chụp khám nhanh thì sử dụng các loại dịch vụ đó và tự trả tiền.
Tại Canađa, số bác sĩ làm việc cho các phòng khám tư nhân chiếm 57,8%, họ được trả lương theo dịch vụ cung cấp và theo hợp đồng với các tổ chức y tế. Mức giá dịch vụ y tế do chính quyền địa phương quyết định. Chính quyền địa phương sẽ thực hiện việc đàm phán với Hiệp hội Bác sĩ của địa phương mình để đưa ra mức giá chung thống nhất cho dịch vụ y tế của địa phương.
Bên cạnh các tổ chức cung cấp dịch vụ y tế tư nhân, Nhà nước còn huy động sự tham gia của các tổ chức ngành nghề để thực hiện chức năng quản lý. Ví dụ, các tổ chức/hiệp hội nghề nghiệp được giao nhiệm vụ cấp phép hành nghề, ban hành các tiêu chuẩn y tế của các tỉnh bang.
Chi ngân sách nhà nước cho y tế: vai trò này của Nhà nước có sự thay đổi lớn ở Canađa sau khi Chính phủ quyết định áp dụng chế độ bảo hiểm y tế cơ bản toàn dân vào đầu những năm 1960. Theo đó, chi phí cho dịch vụ chăm sóc y tế cơ bản của mọi người dân Canađa đều được tài trợ bởi Chính phủ Canađa thông qua bảo hiểm y tế cơ bản. Mỗi công dân Canađa đều có quyền nộp đơn cho chính quyền địa phương nơi họ sinh sống để nhận thẻ bảo hiểm y tế cơ bản. Khi sử dụng các dịch vụ y tế người dân sẽ được Nhà nước chi trả theo giá dịch vụ đã được thống nhất trên toàn tỉnh bang. Tuy nhiên, Nhà nước chỉ cung cấp bảo hiểm cho những dịch vụ y tế cơ bản, được quy định chung trên cả nước tại Đạo luật Y tế Canađa. Những dịch vụ cơ bản nhất trong y tế như khám bác sĩ và chi phí điều trị tại bệnh viện. Những chi phí vượt ngoài những chi phí trên sẽ do bệnh nhân tự trả, có thể thông qua bảo hiểm y tế tư nhân hoặc người bệnh tự chi trả. Các chi phí cho bảo hiểm dịch vụ y tế cơ bản của người dân hầu hết được trả bằng khoản thu từ thuế. Tuy nhiên, ở một vài địa phương, công dân phải đóng một khoản phí bảo hiểm nhất định hàng năm. Cũng có địa phương đề nghị người dân trả phí bằng nhau cho mỗi lần khám bệnh. Tuy nhiên, số địa phương áp dụng các biện pháp này rất ít. Số liệu thống kê năm 2007 cho thấy số tiền đóng phí bảo hiểm y tế và chi trả nói trên chỉ chiếm 2 tỷ đôla Canađa trong khi đó Chính phủ chi trả 107 tỷ đôla/năm.
- Quản lý nhà nước về giáo dục: giáo dục là lĩnh vực được Chính phủ và người dân Canađa đặt mối quan tâm lớn và đây cũng là một trong những niềm tự hào của người dân nước này với hệ thống giáo dục đào tạo chất lượng cao. Trung bình hàng năm Chính phủ Canađa chi khoảng 5% GDP cho giáo dục, chiếm khoảng 12% chi tiêu của Chính phủ.
Trong lĩnh vực giáo dục, Nhà nước đóng vai trò lớn trong việc thiết lập khuôn khổ luật pháp hình thành và vận hành hệ thống giáo dục, cung cấp dịch vụ giáo dục và tài chính tài trợ cho hoạt động giáo dục và các hoạt động liên quan. Giáo dục hầu như dưới quyền quản lý của cấp tỉnh bang, cấp liên bang chỉ phụ trách một số lĩnh vực nhất định như giáo dục cho người thổ dân hoặc hỗ trợ đào tạo nghề. Do đó, hệ thống giáo dục ở các tỉnh bang có sự khác biệt nhất định, tuy nhiên sự khác biệt này không lớn.
Hệ thống giáo dục Canađa tồn tại cả hai hình thức trường học công lập và trường học tư nhân. Trường học công lập ở Canađa chiếm đa số và số trường học tư rất ít. Gần 95% số học sinh/sinh viên ở Canađa được đào tạo trong trường công và chỉ có hơn 5% theo học ở trường tư. Trường tư được thành lập theo nhu cầu đào tạo của người dân, nguồn kinh phí hoạt động của các trường tư chủ yếu từ học phí. Đối với cấp học sau phổ thông, trường tư có học phí cao hơn nhiều so với học phí ở trường công.
Nhìn chung, so với trường công, một số trường tư ở Canađa rất nổi tiếng với chương trình đào tạo, chất lượng dạy và học rất cao. Tuy nhiên, trường học tư nhân từng là vấn đề gây tranh cãi gay gắt ở Canađa, thậm chí ở một số tỉnh bang có quy định cấm hình thành trường tư do lo ngại về sự không công bằng đối với học sinh, nhất là học sinh nghèo.
Các trường học hệ phổ thông ở Canađa chia làm 3 loại: trường công “bình thường” (loại này chiếm hầu như toàn bộ số trường công), trường công loại độc lập (charter school) (loại này chiếm một số ít) và trường học tư nhân.
Đối với trường công loại bình thường, các chủ thể liên quan đến hoạt động của trường bao gồm Bộ Giáo dục của tỉnh bang, Ban quản lý trường học, giáo viên và Công đoàn giáo viên, Hội đồng trường, cha mẹ học sinh. Mỗi chủ thể có các vai trò khác nhau. Bộ Giáo dục tư vấn chính quyền tỉnh bang đưa ra những quy định cơ bản cho giáo dục tại tỉnh bang như: chương trình học, phân chia ngân sách cho giáo dục của tỉnh bang,… Tuy nhiên, đối với sự vận hành, hoạt động của các trường, Ban quản lý trường đóng vai trò chủ yếu. Ban quản lý trường học (thường là thuộc một quận hoặc một vùng nhất định) do cộng đồng địa phương đó bầu ra, đóng vai trò quản lý và giám sát hoạt động của các trường thuộc quận hoặc vùng đó. Ban quản lý hoạt động dưới danh nghĩa tập thể Ban hơn là danh nghĩa các cá nhân được bầu vào Ban, chịu trách nhiệm trước cộng đồng và chính quyền địa phương. Ban có các vai trò quyết định cơ chế vận hành của trường học, chủ yếu bao gồm: Hình thành tầm nhìn dài hạn cho các trường thuộc quận và vùng đó; thiết lập và duy trì cơ cấu hoạt động cho các trường bao gồm lựa chọn người quản lý của các trường, soạn thảo các chính sách, thực hiện các chương trình học, ngân sách và thỏa thuận với các đối tượng; chịu trách nhiệm trước cộng đồng về việc tuyển dụng nhân sự, đàm phán và thống nhất tiền lương với công đoàn giáo viên, chi tiêu tài chính và các dịch vụ giáo dục do các trường cung cấp; thay mặt cộng đồng đưa ra các ý kiến, quan điểm liên quan đến giáo dục tại địa bàn phụ trách.
Đối với loại trường công hoạt động độc lập (charter school) có Ban quản lý riêng, chịu trách nhiệm trực tiếp với chính quyền tỉnh bang. Hiện nay, loại trường này không phổ biến, chỉ có ở một tỉnh bang của Canađa (Alberta). Trường tư nhân có thể lựa chọn hình thức hoạt động vì lợi nhuận hoặc không vì lợi nhuận nhưng phải đăng ký với Bộ Giáo dục của tỉnh bang và tuân thủ những quy định về chương trình giảng dạy và các tiêu chuẩn khác do cơ quan này đề ra.
2. Một số đánh giá, nhận xét và kinh nghiệm rút ra:
- Việt Nam cần xây dựng lộ trình để chuyển dần chức năng cung cấp các chương trình, dịch vụ công từ Chính phủ sang cho các tổ chức phi chính phủ, đặc biệt là khu vực tư nhân. Nhà nước chỉ tập trung vào hai nhiệm vụ cơ bản thiết lập khuôn khổ pháp lý cho sự vận hành của hệ thống y tế và giáo dục và tài trợ cho các dịch vụ y tế nhất định;
- Điều hành hoạt động cho các bệnh viện và trường học thường được thực hiện qua các Ban quản lý, sự can thiệp trực tiếp của các cơ quan hành chính nhà nước thường rất hạn chế. Vai trò của các tổ chức hiệp hội được phát huy nhằm đảm bảo chất lượng cung cấp dịch vụ của các bệnh viện, trường học.
- Sự hiện diện của Nhà nước luôn được quan niệm là phục vụ lợi ích của người dân. Nhà nước đóng vai trò là người tạo lập, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi và công bằng để các thành viên trong xã hội phát huy hết khả năng để tự phát triển.
- Trong lĩnh vực y tế và giáo dục nhà nước nên tập trung vào vai trò hình thành khuôn khổ pháp lý thay vì tham gia trực tiếp cung cấp dịch vụ. Điều này đảm bảo huy động vai trò của các cá nhân, tổ chức xã hội tham gia cùng vận hành hệ thống, giảm gánh nặng cho các cơ quan nhà nước, đảm bảo hiệu quả hoạt động của các tổ chức, đáp ứng nhu cầu của người dân.
- Phát huy vai trò của các tổ chức nghề nghiệp, xã hội nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ trong các lĩnh vực y tế, giáo dục.
- Tùy từng thời kỳ phát triển mà Nhà nước quyết định vai trò tài trợ trong dịch vụ y tế và giáo dục cho phù hợp.
- Phát triển hệ thống bảo hiểm y tế để thực hiện đúng và tốt hơn chức năng của nó nhằm đảm bảo đa số người dân chi trả phí khám chữa bệnh qua bảo hiểm y tế.
ThS. Đỗ Thị Thu Hằng
Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ
Chú thích:
1. Hiện nay, Canada có 10 bang (Newfoundland và Labrado, Prince Edward Island, Nova Scotia, New Brunswick, Quebec, Ontario, Manitoba, Saskatchewan, Alberta và British Columbia) và 3 khu tự trị (Northwest Territory, Nunavut và Yukon Territory)
2. Quyền này cho phép chính phủ liên bang nắm việc kiểm soát các công trình địa phương mà được cho là gắn với lợi ích quốc gia hoặc lợi ích của hai hay nhiều bang (bất chấp các công trình địa phương này thuộc thẩm quyền của chính quyền bang). Việc sử dụng quyền này ngày càng giảm và đến năm 1961 thì bãi bỏ quyền tuyên bố.
3. Quyền này cho phép chính phủ liên bang xem xét lại và bãi bỏ những quy định mà chính quyền bang thông qua. Quyền này được áp dụng lần cuối vào năm 1943.
4. Theo số liệu thống kê của Canada, năm 2008 trong tổng số ngân sách của chính quyền bang và khu tự trị, có khoảng 17% nguồn thu dưới hình thức khoản hỗ trợ của chính phủ liên bang.
Tài liệu tham khảo:
1. Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành chính công trong một thế giới cạnh tranh- Nxb Chính trị Quốc gia.
2. www.canada.gc.ca/home.html.
3. Báo cáo khảo sát“Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ trong quản lý phúc lợi xã hội ở Canađa”của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương tháng 10/2012.