Hiệp hội các tổ chức kinh tế (sau đây gọi tắt là Hiệp hội) là tổ chức xã hội nghề nghiệp tập hợp các doanh nghiệp cùng ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh nhằm mục đích hợp tác, trao đổi kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp, thoả thuận, điều hoà về quy mô sản xuất, giá cả, chất lượng sản phẩm, thị trường, phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Gần 30 năm qua, cùng với sự phát triển của kinh tế, Hiệp hội ở các ngành kinh tế đã phát triển nhanh về số lượng, chất lượng, đa dạng phong phú về mô hình và quy mô tổ chức. Tính đến tháng 12/2013 đã có 127 Hiệp hội các tổ chức kinh tế có phạm vi hoạt động trong toàn quốc và 495 Hiệp hội có phạm vi hoạt động trong tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Hầu hết những lĩnh vực kinh tế quan trọng đều đã có Hiệp hội ngành hàng.
Hiệp hội các tổ chức kinh tế thời gian qua đã làm khá tốt chức năng chính của mình, đó là là tổ chức đại diện cho hội viên thuộc ngành hàng trước pháp luật, trong quan hệ đối nội, đối ngoại, có liên quan đến chức năng của Hiệp hội.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra nhanh chóng đòi hỏi các Hiệp hội - những đại diện của ngành kinh tế mà nó đại diện - những thách thức mới như: là cầu nối giữa nhà nước với doanh nghiệp – doanh nhân; là đại diện của các doanh nghiệp trên trường quốc tế trong các nhiệm vụ xúc tiến thương mại, bảo vệ quyền và lợi ích của hội viên trong tranh chấp thương mại quốc tế; là kênh thông tin trong mở rộng thị trường trong và ngoài nước….
Cạnh đó, chủ trương xã hội hóa của Đảng và Nhà nước cũng đặt ra cho các tổ chức xã hội nói chung và các Hiệp hội nói riêng trước những nhiệm vụ mới.
Song, khung pháp lý về loại hình tổ chức này thiếu, chưa phân biệt rõ các loại hình tổ chức hội nghề nghiệp với Hiệp hội nên chưa hoàn toàn đáp ứng được sự ra đời, phát triển của Hiệp hội và không đáp ứng được công tác quản lý đối với loại hình tổ chức này. Các bộ, ngành quản lý lĩnh vực Hiệp hội hoạt động không thống nhất trong việc chuyển giao nhiệm vụ do Bộ trước đó đảm nhiệm sang cho các Hiệp hội, hoặc không coi Hiệp hội là một kênh để nối doanh nghiệp với cơ quan quản lý nhà nước hay là cầu nối của một ngành của một nước đối với quốc tế.
Do đó, hiệu quả quản lý của các cơ quan nhà nước đối với loại hình này còn lỏng lẻo, đôi khi mang tính hình thức.
Từ đó cho thấy việc tìm ra các giải pháp được đưa ra nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với Hiệp hội giai đoạn tới là việc cần thiết. Có thể đề xuất một số giải pháp như sau:
1. Nâng cao nhận thức về Hiệp hội, làm cơ sở để xây dựng và phát huy vai trò của Hiệp hội đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước
Có quan niệm coi Hiệp hội như là cơ quan hành chính sự nghiệp hoặc một đơn vị kinh doanh dịch vụ, thậm chí như một tổ chức mang tính hình thức, danh dự, “hữu danh, vô thực”... Cách nhìn nhận như vậy là chưa đúng với bản chất, mục đích, ý nghĩa của hiệp hội, làm mờ nhạt vai trò, chức năng của Hiệp hội, dẫn đến làm sai lệch cách ứng xử của các cơ quan có thẩm quyền, cơ quan chuyên môn, các tổ chức có liên quan đối với Hiệp hội. Ngay trong đời sống xã hội cũng có tình trạng như vậy. Thường thì người ta hay nghe, được nhắc đến, hay quan tâm đến những sự kiện, vấn đề liên quan đến nhà máy, xí nghiệp này, công ty, tổng công ty khác... chứ Hiệp hội ít được nhắc đến, ít được để ý đến. Điều đó cũng bởi lẽ một phần do sự hiểu biết do vai trò, vị trí... của Hiệp hội trong đời sống xã hội chưa ghi dấu ấn sâu sắc, đậm nét.
Để nâng cao nhận thức về Hiệp hội, tới đây cần chú trọng tới một số biện pháp sau:
- Thứ nhất, Nhà nước cần tiếp tục ban hành những văn bản quy phạm pháp luật khẳng định rõ hơn vị trí, vai trò của các tổ chức phi chính phủ nói chung, các Hiệp hội của các tổ chức kinh tế nói riêng. Để có cơ sở xây dựng các văn bản đó phù hợp và đáp ứng với tình hình thực tế cần có sự nghiên cứu, khảo sát, đóng góp ý kiến của các Hiệp hội của các tổ chức kinh tế và cũng cần có sự đầu tư để khảo sát thống kê, thăm dò, tổng hợp ý kiến từ các Hiệp hội, các doanh nghiệp, các doanh nhân, từ những cán bộ làm công tác quản lý ở các cơ quan quản lý nhà nước, từ những chuyên gia về lĩnh vực này đồng thời tham khảo vấn đề này ở các nước trên thế giới... nhằm đảm bảo các văn bản quy phạm pháp luật phản ánh đúng những vấn đề có tính quy luật, bản chất, phổ biến, khách quan, phù hợp với xu thế phát triển không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới.
- Thứ hai, trên cơ sở những văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành, cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan chức năng cần cụ thể hoá, triển khai phổ biến quán triệt rộng rãi đến các Hiệp hội, các doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị có liên quan để các tổ chức, tập thể, cá nhân nghiên cứu, tìm hiểu, tiếp thu, bổ sung, nâng cao nhận thức của mình. Về hình thức phổ biến, quán triệt có thể vận dụng nhiều hình thức như tổ chức các lớp tập huấn, học tập ngắn ngày... do Bộ Nội vụ, các bộ, ngành tổ chức tuỳ theo mức độ quan trọng, cần thiết của văn bản đó. Sau khi đã tiếp nhận những văn bản quy phạm pháp luật, các Hiệp hội cần tổ chức phổ biến, quán triệt cho các hội viên hoặc đăng tải trên tạp chí, tập san, bản tin của Hiệp hội, đưa lên website, gửi fax, email... cho các hội viên. Khi có điều kiện, hoặc thấy cần thiết, hoặc sau một thời gian triển khai thực hiện các văn bản đó trong thực tế, Hiệp hội có thể tổ chức các buổi thảo luận, hội thảo, toạ đàm để củng cố, tăng thêm hiểu biết, hiểu đúng, đi đến thống nhất nhận thức, liên hệ với quá trình vận dụng trong thực tiến, tiếp tục đóng góp ý kiến kiện nghị với các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan để bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện các văn bản đó hoặc làm cơ sở để cơ quan quản lý nhà nước xây dựng các văn bản mới phù hợp hơn. Đồng thời các Hiệp hội cần cụ thể hoá, gắn với mỗi Hiệp hội, chuẩn hoá theo tinh thần các văn bản đó để đưa vào, bổ sung vào điều lệ của Hiệp hội.
- Thứ ba, từ nhận thức đúng đắn về những vấn đề cơ bản về Hiệp hội của các tổ chức kinh tế, các cơ quan, đội ngũ cán bộ công chức trong bộ máy quản lý nhà nước, các doanh nghiệp hội viên và những tổ chức, đơn vị có liên quan cần tự quán triệt tạo sự chuyển biến trong cách nghĩ, cách làm, cách thức ứng xử trên thực tế đối với các Hiệp hội. Các tổ chức này cần phải có sự ứng xử với các Hiệp hội theo đúng tinh thần văn bản quy phạm pháp luật về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền lợi, nghĩa vụ... của nó, tôn trọng và tạo điều kiện thuận lợi cho Hiệp hội hoạt động, tự giác, tích cực đóng góp, tham gia xây dựng Hiệp hội... Bản thân Hiệp hội, các thành viên trong Ban lãnh đạo, cơ quan thường trực hoặc đơn vị trực thuộc Hiệp hội cũng phải nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm, quyền hạn, chức năng, nhiệm vụ của Hiệp hội để thực thi, phát huy trên thực tế theo đúng quy định, hướng dẫn của các cơ quan quản lý nhà nước và điều lệ của Hiệp hội.
- Thứ tư, đồng thời với các biện pháp trên, chúng ta phải kết hợp nâng cao hiểu biết cho toàn xã hội về vị trí, vai trò của Hiệp hội của các tổ chức kinh tế nói riêng và tổ chức phi chính phủ ở nước ta nói chung.
Ngoài các cơ quan quản lý nhà nước về hội, tổ chức phi chính phủ, cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực, các Hiệp hội, các doanh nghiệp... chúng ta cần chú ý nâng cao hiểu biết về vấn đề này cho các tổ chức khác trong hệ thống chính trị (nhất là tổ chức Đảng các cấp), các tổ chức đoàn thể quần chúng không thuộc hệ thống chính trị và cả cộng đồng. Hơn nữa, khi cần thiết, cũng cần tạo điều kiện cho những đối tác, cơ quan, tổ chức nước ngoài có nhu cầu tìm hiểu, nâng cao hiểu biết về vấn đề này và tuyên truyền ra quốc tế. Điều đó cũng có ý nghĩa nhất định về cả kinh tế, chính trị, xã hội đối với chúng ta. Thực hiện mục đích trên có thể dùng nhiều hình thức, song chủ yếu là thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Qua đó không những nâng cao hiểu biết cho mọi người, mọi tổ chức mà còn góp phần tôn vinh, quảng bá... cho các Hiệp hội. Có hiểu biết đúng về Hiệp hội của các tổ chức kinh tế, các tổ chức, cá nhân, các đối tác, các doanh nhân... mới có cơ sở để tôn trọng, xác định thái độ ứng xử cho đúng, để xem xét việc hợp tác, gia nhập Hiệp hội... phát huy dân chủ, nâng cao dân trí.
Nhận thức là cả một quá trình, nâng cao nhận thức càng phải tuân thủ quy luật đó. Vì vậy việc làm này không thể chỉ tiến hành trong một thời gian nhất định, bằng những lực lượng, những hình thức nhất định mà phải tiến hành thường xuyên, liên tục với nhiều lực lượng, hình thức, phương pháp đa dạng, sinh động, phong phú, hấp dẫn. Mặt khác từ nhận thức đến hành động thực tiễn bao giờ cũng có khoảng cách nhất định, mà mục đích của nhận thức là để chuyển biến trong hoạt động thực tiễn. Do đó, đồng thời với nâng cao nhận thức cần phải thấm nhuần, chuyển hoá, thể hiện bằng hành động trên thực tế, bằng các động thái, các hành động cụ thể của các tổ chức, cá nhân trong xem xét, nhìn nhận, đánh giá, ứng xử, giao tiếp, quan hệ làm việc với Hiệp hội và của bản thân các Hiệp hội.
Ngoài những vấn đề đặt ra ở trên, cũng cần lưu ý về mặt nhận thức, chúng ta phải luôn tuân theo quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn chặt với tình hình thực tế nền kinh tế – xã hội của Việt Nam. Đồng thời, chú ý chống những quan điểm, tư tưởng, nhận thức lệch lạc, sai trái, những biểu hiện như tuyệt đối hoá hoặc hạ thấp vai trò của Hiệp hội, hay xa rời quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Bên cạnh đó, cũng cần xác định rõ rằng công việc trên đây không chỉ là của các Hiệp hội mà là trách nhiệm, sự phối hợp của nhiều tổ chức, lực lượng, trước hết là các cơ quan quản lý nhà nước, các cấp uỷ đảng, chính quyền, các cơ quan khác có liên quan.
2. Phát huy vai trò, trách nhiệm và năng lực của các tổ chức đảng, các cơ quan quản lý nhà nước góp phần thiết thực nâng cao hiệu quả quá trình xây dựng và hoạt động của Hiệp hội
Sự lãnh đạo của Đảng, của các tổ chức đảng và sự quản lý điều hành của Nhà nước, các cơ quan quản lý nhà nước có vai trò quan trọng, quyết định sự trưởng thành, phát triển của các Hội nói chung, các Hiệp hội của các tổ chức kinh tế nói riêng. Trên cơ sở đường lối, quan điểm chỉ đạo của Đảng, mục tiêu, chiến lược và tình hình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, thực trạng, kiến nghị của các Hiệp hội... mà các tổ chức đảng đưa ra các chủ trương lãnh đạo, các cơ quan quản lý nhà nước nghiên cứu xác định và ứng dụng các chính sách, biện pháp, các đòn bẩy kinh tế... chi phối, tác động, định hướng, quyết định quá trình xây dựng phát triển của Hiệp hội. Hiệp hội dù là một trong những loại hình tổ chức phi chính phủ, là loại hình tổ chức mang tính chất xã hội – nghề nghiệp, thành lập trên cơ sở tự nguyện, tự quản, tự trang trải kinh phí, tự chịu trách nhiệm, không vì mục đích lợi nhuận... song vẫn phải xây dựng và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chịu sự điều chỉnh của các văn bản quy phạm pháp luật, tuân thủ sự lãnh đạo của tổ chức đảng, sự quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước.
Thực tế thời gian qua, bên cạnh những ưu điểm, việc phát huy vai trò, trách nhiệm, năng lực của các tổ chức đảng, các cơ quan quản lý nhà nước còn một số hạn chế cần khắc phục như:
- Các cấp uỷ đảng và đảng đoàn ở một số Hiệp hội chưa quan tâm đúng mức đến việc chỉ đạo, định hướng về tổ chức và hoạt động của Hiệp hội, chưa thực sự coi trọng việc giới thiệu cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực để tham gia, giữ các chức vụ lãnh đạo Hiệp hội, chưa thật lưu ý lắng nghe phản ánh tâm tư nguyện vọng từ các Hiệp hội và các doanh nghiệp hội viên. Một số tổ chức đảng, công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng (nhất là các tổ chức cơ sở đảng ở các Hiệp hội) nhằm tăng cường vai trò, hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với các hoạt động của Hiệp hội còn hạn chế nhất định. Sự phân công về mặt lãnh đạo của Hiệp hội cũng còn hạn chế. Sự phân công về mặt lãnh đạo và quản lý nhà nước đối với Hiệp hội ở một số cấp uỷ chưa thống nhất, rạch ròi, dẫn đến có hiện tượng chồng chéo “lấn sân”, bao biện, làm thay hoặc buông lỏng quản lý, lãnh đạo.
- Nhà nước còn chậm trễ trong việc ban hành, bổ sung, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật về thành lập, tổ chức, hoạt động, quản lý các hội (trong đó có các Hiệp hội của các tổ chức kinh tế) và cụ thể hoá cho phù hợp với tình hình nhiệm vụ thời kỳ mới. Các bộ, ngành chưa coi trọng đúng mức, sâu sát chặt chẽ, nghiêm túc trong công tác quản lý, kiểm tra đối với các Hiệp hội, khi phát hiện có sai phạm thì xử lý không kiên quyết, dứt điểm.
Từ những vấn đề trên, để phát huy hơn nữa vai trò của các tổ chức đảng, các cơ quan quản lý nhà nước nhằm đẩy mạnh quá trình xây dựng phát triển của Hiệp hội của các tổ chức kinh tế Việt Nam, nâng cao vai trò hiệu quả đóng góp của Hiệp hội đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
3. Đối với các cơ quan quản lý nhà nước
Các cơ quan quản lý nhà nước cần nâng cao hơn nữa trách nhiệm và vai trò của mình đối với công tác tổ chức, hoạt động của các Hiệp hội, tránh tình trạng quản lý chung chung, trách nhiệm chung, khắc phục một hiện tượng lâu nay các Hiệp hội cảm thấy như mình bị bỏ rơi hoặc không biết rõ cơ quan nhà nước nào quản lý, khi cần thiết hay có việc cần giải quyết, cần giúp đỡ... thì không biết cần “gõ cửa” cơ quan nào. Những vấn đề này cần được xác định rõ ràng, chặt chẽ và cụ thể hơn nữa đối với từng cấp, từng ngành, từng cơ quan chuyên môn, cơ quan chức năng. Trên cơ sở những quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kinh nghiệm của các nước trên thế giới và trong nước về xây dựng, phát triển các tổ chức phi chính phủ, các Hội nói chung, Hiệp hội nói riêng, từ tình hình, yêu cầu thực tiễn hiện nay mà Nhà nước cần tiếp tục bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện, ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật trong đó xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, phạm vi quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước đối với các tổ chức phi chính phủ, các hội, và cụ thể hoá với các Hiệp hội. Đồng thời trong đó cũng cần xác định rõ mối quan hệ, sự phối hợp, hiệp đồng công tác giữa các cơ quan trong hệ thống quản lý nhà nước với nhau trong quản lý Hiệp hội (từ Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương đến chính quyền địa phương và cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực mà các Hiệp hội này hoạt động và các cơ quan hữu quan). Hơn nữa, kèm theo những văn bản, quy định, cần có những hướng dẫn tổ chức thực hiện cụ thể, quy định trách nhiệm rõ ràng, cụ thể hơn về từng mặt, từng góc độ (như đội ngũ cán bộ ở các Hiệp hội do cơ quan nào quản lý; khi các Hiệp hội vi phạm pháp luật thì cơ quan nào có trách nhiệm đảm nhận xử lý giải quyết và chịu trách nhiệm...). Đây là cơ sở để các cơ quan quản lý nhà nước làm căn cứ, xác định phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của mình và tổ chức, tiến hành các hoạt động, giải quyết các mối quan hệ, các công việc đối với Hiệp hội và từng thành viên của Hiệp hội một cách đồng bộ, có nề nếp, nhịp nhàng, ăn khớp trong một cơ chế quản lý thống nhất, khoa học, đem lại hiệu quả cao, góp phần thuận lợi cho các Hiệp hội xây dựng và phát triển. Tuy nhiên, cùng với việc bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện, ban hành mới các văn bản, quy định, hướng dẫn này phải có công tác kiểm tra, chấn chỉnh việc vận dụng trên thực tế mới mang lại hiệu quả thiết thực.
Một yêu cầu bức xúc hiện nay là Nhà nước cần khẩn trương xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý thuận lợi hơn cho Hiệp hội hoạt động. Văn bản quy phạm pháp luật cần phải định hướng lâu dài và bao hàm áp dụng được đối với tất cả các Hiệp hội, các tổ chức phi chính phủ. Sau đó, trên cơ sở các Nghị định, quyết định... đối với đặc thù riêng của các Hiệp hội, cần thiết phải có các thông tư, văn bản hướng dẫn chuyên biệt, cụ thể để Hiệp hội vận dụng thực hiện được thuận lợi, đúng hướng. Thực tế cho thấy những văn bản pháp quy của nhiều nước phát triển trên thế giới vận dụng trong khoảng thời gian dài, hàng chục, hàng trăm năm mà vẫn bảo đảm tính hợp lý, không cần phải thay đổi, trong khi đó các văn bản của nước ta phải liên tục sửa đổi, bổ sung, thay thế. Cá biệt có văn bản vừa ban hành đã cần phải sửa đổi do không phù hợp với thực tế. Do đó, việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đòi hỏi phải có khả năng tư duy có tầm khái quát cao, có tính định hướng và giá trị áp dụng cho một khoảng thời gian lâu dài. Điều này đòi hỏi chúng ta phải có sự đầu tư nghiên cứu công phu, phải học hỏi kinh nghiệm của nước ta và từ những nước phát triển trên thế giới; thường xuyên tổ chức lấy ý kiến đóng góp từ phía các Hiệp hội và các tổ chức, đơn vị có liên quan; kết hợp dự báo, định tính được sự vận động, phát triển của tình hình thực tiễn Hiệp hội trong tương lai; xây dựng, hoàn chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật có tính thống nhất, đồng bộ, mang tính tổng thể, hệ thống và khoa học, thuận lợi cho việc áp dụng trên thực tế. Điều đó cũng có nghĩa là chúng ta phải luôn xem xét, đánh giá sự phát triển của Hiệp hội đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với sự vận động biến đổi của đời sống kinh tế – xã hội, của sự phát triển của nền kinh tế trong nước, trong khu vực và trên thế giới cùng những yếu tố khác có ảnh hưởng, chi phối.
Hiện nay, các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước cần tập trung xây dựng cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho Hiệp hội hoạt động có hiệu quả hơn, nhất là việc chuyển giao, cung cấp các dịch vụ công cho Hiệp hội khi Hiệp hội có đủ điều kiện, khả năng đảm nhận. Đồng thời tạo điều kiện cho các Hiệp hội tham gia ngày càng tích cực, có hiệu quả cao hơn vào thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội. Khuyến khích các Hiệp hội hoạt động vì lợi ích cộng đồng, đóng góp vào sự phát triển của đất nước, tạo điều kiện cho các Hiệp hội tham gia chương trình xã hội hoá các hoạt động y tế, giáo dục, văn hoá, khoa học công nghệ, thể dục thể thao... Mặt khác, các văn bản này cũng cần phân công rõ nhiệm vụ của các bộ, ngành trong theo dõi, quản lý, giúp đỡ các Hiệp hội thực hiện đúng đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước. Trên cơ sở những văn bản gần đây (như Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội, Thông tư số 03/2013/TT-BNV của Bộ Nội vụ ngày 16/4/2013 hướng dẫn thực hiện một số Điều của Nghị định số 45/2010/NĐ-CP...) cần tiếp tục cụ thể hoá, thực hiện và rút kinh nghiệm, phản ánh lại với Nhà nước để bổ sung, sửa đổi hoặc ban hành mới cho hợp lý hơn, hoàn thiện hơn, có khả năng áp dụng với một phạm vi rộng và có giá trị thực hiện trong khoảng thời gian lâu dài hơn. Điều đáng chú ý khi soạn thảo ban hành, áp dụng các văn bản này nói chung là phải bảo đảm ngăn chặn việc biến các Hiệp hội thành tổ chức độc quyền, chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Riêng đối với việc chuyển giao dịch vụ công cho Hiệp hội, các cơ quan quản lý Nhà nước cần đổi mới tư duy theo hướng mạnh dạn hơn. Cùng một nhiệm vụ, một công trình... nào đó, từ trước đến nay chủ yếu giao cho các cơ quan, đơn vị của Nhà nước đảm nhận, song hiện nay, trên thực tế, có nhiều Hiệp hội, doanh nghiệp hoàn toàn có đủ khả năng thực hiện được, thậm chí với những ưu thế, tiềm lực riêng có của các Hiệp hội, doanh nghiệp việc đảm nhận tiến hành có thể đạt hiệu quả tốt hơn. Như vậy, vừa phát huy được vai trò, khả năng của các Hiệp hội, huy động được các Hiệp hội, các tổ chức, các nguồn lực trong xã hội tham gia xây dựng, phát triển đất nước, Nhà nước vừa có điều kiện tập trung vào những nhiệm vụ, mục tiêu, kế hoạch, công trình... lớn hơn. Tuy nhiên, trên thực tế, ở từng nhiệm vụ, công việc cụ thể, trước khi cho phép đảm nhận, cần có quá trình nghiên cứu, rà soát, đánh giá về năng lực của từng Hiệp hội để kết luận Hiệp hội có đủ điều kiện để đảm đương, hoàn thành được nhiệm vụ, công việc đó hay không. Hơn nữa, cần xác định rõ những nội dung, công việc, những mặt mà Nhà nước có thể tạo điều kiện, hỗ trợ, giúp đỡ cho Hiệp hội, doanh nghiệp cũng như cần tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc, giám sát đối với Hiệp hội, doanh nghiệp trong quá trình tổ chức thực hiện. Việc chuyển giao dịch vụ công theo hướng trên đây đã và đang được vận dụng rộng rãi ở nhiều nước phát triển trên thế giới, thể hiện rõ tính đúng đắn, hiệu quả, lợi ích rõ rệt của phương thức, cách làm này. Ở nước ta, vấn đề này còn mới mẻ do nhận thức và từ điều kiện thực tế của chúng ta còn có những hạn chế, cho nên có sự dè dặt trong chuyển giao dịch vụ công từ phía Nhà nước sang cho các tổ chức nhân dân, cho các Hiệp hội. Để làm chuyển biến tích cực hơn vấn đề này trong thời gian tới không chỉ đòi hỏi từ phía quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước mà ngay cả các Hiệp hội, doanh nghiệp cũng phải đẩy mạnh quá trình xây dựng nâng cao năng lực, thực lực của mình cho tương xứng, đủ sức đảm nhận và hoàn thành tốt các nhiệm vụ, công việc được chuyển giao.
Nhà nước cũng nên nghiên cứu giao cho một cơ quan có thẩm quyền làm đầu mối để đào tạo cán bộ quan lý nhà nước chuyên về Hội, Hiệp hội cũng như các cán bộ làm việc tại Hội, Hiệp hội nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác hội, nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội đủ tầm hội nhập kinh tế quốc tế.iê
Trên đây là một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với Hiệp hội theo hướng tạo điều kiện để Hiệp hội phát triển, hội nhập./.
Trần Thanh Phương
Vụ Tổ chức phi chính phủ, Bộ Nội vụ