Thôn, tổ dân phố không phải là một cấp hành chính mà là tổ chức tự quản của cộng đồng dân cư có chung địa bàn cư trú trong một khu vực ở một xã, phường, thị trấn, là nơi thực hiện dân chủ trực triếp và rộng rãi để phát huy các hình thức hoạt động tự quản, tổ chức nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ của cấp trên giao.

 

Thời gian qua, cùng với hoạt động của các tổ chức tự quản khác ở thôn, tổ dân phố, hiệu quả hoạt động của thôn, tổ dân phố đã được các cấp Đảng, chính quyền và nhân dân ghi nhận. Hiệu quả đó không chỉ tính được bằng giá trị về mặt vật chất như các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng… bên cạnh hiệu quả hữu hình có thể đo, đếm được, còn có giá trị hiệu quả vô hình không đo đếm được, đó là sự đoàn kết cộng đồng của cộng đồng dân cư, là niềm tin, sự tôn trọng của người dân đối với Đảng, Nhà nước và chính quyền cơ sở…

Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, kết quả đã đạt được thì công tác tổ chức và hoạt động của thôn, tổ dân phố cũng còn nhiều tồn tại, bất cập. Do đó, Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư số 04/2012/TT-BNV ngày 31/8/2012 hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của thôn, tổ dân phố (sau đây gọi tắt là Thông tư số 04/2012/TT-BNV) để thay thế Quyết định số 13/2002/QĐ-BNV ngày 06/12/2002 của Bộ Nội vụ về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của thôn và tổ dân phố (sau đây gọi tắt là Quyết định số 13/2002/QĐ-BNV).

Sau đây là một số điểm mới của Thông tư số 04/2012/TT-BNV ngày 31/8/2012 hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của thôn, tổ dân phố:

Điểm mới thứ nhất, về tổ chức của thôn, tổ dân phố:

Điều 4 Thông tư số 04/2012/TT-BNV quy định: “Mỗi thôn có Trưởng thôn, 01 Phó Trưởng thôn và các tổ chức tự quản khác của thôn. Trường hợp thôn có trên 500 hộ gia đình thì có thể bố trí thêm 01 Phó Trưởng thôn.

 Mỗi tổ dân phố có Tổ trưởng, 01 Tổ phó tổ dân phố và các tổ chức tự quản khác của tổ dân phố. Trường hợp tổ dân phố có trên 600 hộ gia đình  thì có thể bố trí thêm 01 Tổ phó tổ dân phố”.

So với Quyết định số 13/2002/QĐ-BNV quy định: “Điều 4. Mỗi thôn, tổ dân phố có 01 Phó thôn và 01 Tổ phó tổ dân phố giúp việc cho Trưởng thôn và Tổ trưởng tổ dân phố. Trường hợp thôn và tổ dân phố có trên 1500 dân có thể bố trí thêm 01 Phó thôn và 01 Tổ phó tổ dân phố. Phó thôn, Tổ phó tổ dân phố do Trưởng thôn và Tổ trưởng tổ dân phố đề nghị (sau khi có sự thống nhất với Ban công tác Mặt trận Tổ quốc), Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã xem xét ra quyết định công nhận”.

Điểm mới của Thông tư số 04/2012/TT-BNV về tổ chức của thôn, tổ dân phố là căn cứ vào số hộ gia đình chứ không phải căn cứ vào số dân để quy định số lượng Phó thôn và Tổ phó tổ dân phố. Tuy nhiên, qua thực tế vẫn đang tồn tại một điều bất cập là: Trường hợp thôn và tổ dân phố không chỉ có trên 500, 600 hộ gia đình, mà có thể có 1.500 đến trên 2000 hộ gia đình thì có thể bố trí thêm (tối đa) không quá bao nhiêu Phó thôn, Tổ phó tổ dân phố để đảm bảo phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay? Mặc khác, việc quy định “…01 Phó trưởng thôn và các tổ chức tự quản khác của thôn, tổ dân phố” là quá chung chung,  bên cạnh đó, các tổ chức tự quản khác của thôn, tổ dân phố lại không thuộc đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Thông tư này.

Điểm mới thứ hai, về điều kiện thành lập thôn và tổ dân phố mới:

Nội dung Điều 7 Thông tư số 04/2012/TT-BNV quy định: Việc thành lập thôn mới, tổ dân phố mới phải có đủ các điều kiện sau:

1. Quy mô số hộ gia đình: Đối với thôn: Ở vùng đồng bằng phải có từ 200 hộ gia đình trở lên; ở vùng miền núi, biên giới, hải đảo phải có từ 100 hộ gia đình trở lên.

Đối với tổ dân phố: Ở vùng đồng bằng phải có từ 250 hộ gia đình trở lên; ở vùng miền núi, biên giới, hải đảo phải có từ 150 hộ gia đình trở lên.

2. Các điều kiện khác: Thôn và tổ dân phố phải có cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội thiết yếu. Riêng đối với thôn mới phải đảm bảo đất ở và đất sản xuất bình quân của mỗi hộ ít nhất bằng bình quân chung của xã.

Như vậy, so với quy định tại Điều 8 và Điều 14 của Quyết định số 13/2002/QĐ-BNV thì quy mô số hộ gia đình đối với thôn ở vùng đồng bằng tăng từ 150 hộ lên 200 hộ gia đình trở lên; ở vùng miền núi, biên giới, hải đảo tăng từ  50 hộ lên 100 hộ gia đình trở lên; đối với tổ dân phố tăng từ 70 hộ lên 200 hộ gia đình trở lên đối với vùng đồng bằng, và tăng từ 70 hộ lên 150 hộ gia đình trở lên đối với vùng miền núi, biên giới, hải đảo.

Việc nâng quy mô số hộ gia đình đối với việc thành lập thôn, tổ dân phố mới như đã nêu trên sẽ tinh giảm được tổ chức, bộ máy, cán bộ và góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, hiệu quả đầu tư cho cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, trên thực tế đối với một số xã, thị trấn ở vùng miền núi, biên giới, hải đảo nếu cứ theo quy định phải có từ 100 và 150 hộ gia đình trở lên mà không tính đến điều kiện về diện tích tự nhiên (quá rộng), địa hình chia cắt phức tạp… thì sẽ không phù hợp với thực tiễn hiện nay.

 Điểm mới thứ ba, về quy trình và hồ sơ thành lập thôn mới, tổ dân phố mới:

Theo quy định tại khoản 3, Điều 8 của Quyết định số 13/2002/QĐ-BNV về thành lập thôn mới thì: sau khi Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có chủ trương, Ủy ban nhân dân xã xây dựng phương án thành lập thôn mới; sau khi có nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã, Ủy ban nhân dân xã hoàn chỉnh hồ sơ trình Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp huyện thẩm định, lập hồ sơ trình chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định.

Theo quy định tại Điều 14 của Quyết định số 13/2002/QĐ-BNV về thành lập tổ dân phố mới thì do Ủy ban nhân dân phường, thị trấn lập phương án trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua và trình Hội đồng nhân dân cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định. Như vậy, cùng một loại hình tổ chức mà ở nông thôn thì do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh  xem xét, quyết định; còn ở đô thị thì do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định; và trong quy trình thành lập thôn, tổ dân phố mới không có sự thẩm định của Sở Nội vụ.

Điểm mới về quy trình và hồ sơ thành lập thôn mới, tổ dân phố mới theo Điều 8 Thông tư số 04/2012/TT-BNV, nội dung cụ thể như sau:

- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định chủ trương thành lập thôn, tổ dân phố mới; chỉ đạo Ủy ban nhân dân cấp huyện giao Ủy ban nhân dân cấp xã xây dựng đề án trình Hội đồng nhân dân cấp xã và hoàn chỉnh hồ sơ trình Ủy ban nhân dân cấp huyện; Ủy ban nhân dân cấp huyện có Tờ trình kèm theo hồ sơ gửi Sở Nội vụ để thẩm định trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Sau khi có Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành quyết định thành lập thôn mới, tổ dân phố mới.

- Thời gian Ủy ban nhân dân cấp xã hoàn chỉnh hồ sơ trình Ủy ban nhân dân cấp huyện là 10 ngày làm việc, kể từ khi có Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã.

- Thời gian thẩm định của Ủy ban nhân dân cấp huyện là 15 ngày làm việc, kể từ khi có hồ sơ hợp lệ của Ủy ban nhân dân cấp xã.

- Thời gian thẩm định của Sở Nội vụ không quá 15 ngày làm việc, kể từ khi nhận được Tờ trình và hồ sơ của Ủy ban nhân dân cấp huyện.

Điểm mới thứ tư, về quy trình và hồ sơ ghép cụm dân cư vào thôn, tổ dân phố hiện có:

Điều 9 Thông tư số 04/2012/TT-BNV đã quy định cụ thể về điều kiện, quy trình, hồ sơ ghép cụm dân cư vào thôn, tổ dân phố hiện có do Ủy ban nhân dân cấp xã lập, trình và Ủy ban nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định. Khoản 5, Điều 9 Thông tư số 04/2012/TT-BNV đã hướng dẫn rõ:

“Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ do Ủy ban nhân dân cấp xã chuyển đến, Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm xem xét, thông qua và giao Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành quyết định việc ghép cụm dân cư vào thôn, tổ dân phố hiện có”.

Điểm mới thứ năm, về nhiệm vụ, quyền hạn của Trưởng thôn và Tổ trưởng tổ dân phố:

Điểm mới về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Trưởng thôn và Tổ trưởng tổ dân phố theo Điều 10 Thông tư số 04/2012/TT-BNV là hướng dẫn rõ 11 nhiệm vụ và 3 quyền hạn của của Trưởng thôn và Tổ trưởng tổ dân phố.

Tuy nhiên, cũng như khoản 6 Điều 12 của Quyết định số 13/2002/QĐ-BNV quy định nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn của Trưởng thôn có nhiệm vụ “Tổ chức thực hiện nhiệm vụ do Uỷ ban nhân dân xã giao” tương tự như điểm c khoản 2 Điều 10 Thông tư số 04/2012/TT-BNV quy định quyền hạn của Trưởng thôn là: “Thực hiện các nhiệm vụ do cấp trên giao và các nhiệm vụ khác tại cộng đồng dân cư theo quy định của pháp luật”.

Thực tiễn cho thấy chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố tuy đã được quy định nhưng có những điểm chưa thật cụ thể, còn quá chung chung như đã nêu trên, dẫn đến việc chính quyền xã, phường, thị trấn ở nhiều nơi có biểu hiện coi tổ chức tự quản thôn, tổ dân phố ở cộng đồng dân cư như là một cấp chính quyền; quan niệm “thôn, tổ dân phố là cánh tay nối dài của chính quyền cơ sở ” nên đã giao quá nhiều nhiệm vụ cho Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố, có nhiều việc thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước của công chức cấp xã như việc xác định tình trạng hôn nhân để đăng ký kết hôn nhưng Ủy ban nhân dân cấp xã vẫn yêu cầu Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố phải ký xác nhận vào Tờ khai đăng ký kết hôn (thực chất là việc xác nhận lý lịch tư pháp của một công dân, vv…), gây áp lực công việc quá lớn đối với Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố, trong khi đó họ chỉ là những người hoạt động không chuyên trách ở thôn, tổ dân phố, chế độ làm việc bán thời gian, họ tham gia công tác bằng tâm huyết, bằng sự nhiệt tình do Đảng cử, dân tin đã bầu ra họ, mà đôi khi phụ cấp, sinh hoạt phí chưa tương xứng với công sức lao động của họ đã bỏ ra.

Điểm mới thứ sáu, về quy trình bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn và Tổ trưởng tổ dân phố:

Điều 12 Thông tư số 04/2012/TT-BNV hướng dẫn về quy trình bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn và Tổ trưởng tổ dân phố rất cụ thể, từ việc đề cử, bầu cử, miễn nhiệm, bãi nhiệm đến việc quy định nhiệm kỳ hoạt động của Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố và Phó Trưởng thôn, Tổ phó tổ dân phố và quy định Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã là người có thẩm quyền ra quyết định công nhận Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố và Phó Trưởng thôn, Tổ phó tổ dân phố. 

Điểm mới ở đây là Thông tư số 04/2012/TT-BNV quy định về quy trình bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn và Tổ trưởng tổ dân phố đã thống nhất thực hiện theo Nghị quyết liên tịch số 09/2008/NQLT - CP - UBTWMTTQVN ngày 17/4/2008 của Chính phủ - Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn thi hành các Điều 14, Điều 16, Điều 22 và Điều 26 của Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.

Điểm mới thứ bảy, về chế độ, chính sách đối với Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố và Phó Trưởng thôn, Tổ phó tổ dân phố:

Điều 13 Thông tư số 04/2012/TT-BNV đã hướng dẫn các chế độ, chính sách đối với Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố và Phó Trưởng thôn, Tổ phó tổ dân phố, như: chế độ phụ cấp hàng tháng; chế độ đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn; chế độ khen thưởng, kỷ luật đối với Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố. Tuy nhiên, cũng như Điều 4 Thông tư số 04/2012/TT-BNV và Điều 4 của Quy chế tổ chức và hoạt động của thôn và tổ dân phố ban hành kèm theo Quyết định số 13/2002/QĐ-BNV đều quy định về tổ chức của thôn, tổ dân phố có chức danh Phó Trưởng thôn và Tổ phó tổ dân phố, nhưng chưa một có văn bản nào hướng dẫn mức phụ cấp cụ thể cho chức danh này để các địa phương vận dụng thực hiện một cách thống nhất. 

Điểm mới thứ tám, về trách nhiệm thi hành: Điều 14 Thông tư số 04/2012/TT-BNV đã quy định rõ trách nhiệm thi hành của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã và của Sở Nội vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan quản lý nhà nước các cấp hoàn thành nhiệm vụ của mình.

Trên đây là một số điểm mới của của Thông tư số 04/2012/TT-BNV ngày 31/8/2012 hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của thôn, tổ dân phố (thay thế Quyết định số 13/2002/QĐ-BNV ngày 06/12/2002 của Bộ Nội vụ về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của thôn và tổ dân phố) và một vài tồn tại, bất cập đề nghị cơ quan có thẩm quyền cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết./.

ThS. Nguyễn Thế Vịnh

 Nguyên chuyên viên cao cấp Bộ Nội vụ