Quan điểm cải cách hành chính (CCHC) ở nước ta, mà xuất phát điểm là cải cách thủ tục hành chính (TTHC) được đề ra lần đầu tiên tại Nghị quyết số 38/CP ngày 04/5/1994 của Chính phủ về cải cách một bước TTHC trong giải quyết công việc của công dân và tổ chức. Khi đó, cải cách nền hành chính nhà nước với tư cách là một hệ thống, đồng bộ đúng với ý nghĩa và tầm quan trọng của nó thực sự được quan tâm và trở thành chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước.

Qua các giai đoạn khác nhau, cải cách TTHC đạt được một số thành tựu quan trọng. Với bước ngoặt là thành công của Đề án Đơn giản hóa TTHC trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007-2010 (Đề án 30), Chính phủ đã đánh giá đúng vị trí, vai trò của TTHC trong CCHC và TTHC được tách ra khỏi thể chế thành một trong 6 nội dung nhiệm vụ của Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011-2020.
Chúng ta hãy cùng điểm lại một số kinh nghiệm cụ thể được tổng kết trong quá trình triển khai thực hiện cải cách TTHC thời gian qua.
1. Cắt giảm việc hành chính hóa các quan hệ dân sự, kinh tế; giảm sự can thiệp của cơ quan hành chính nhà nước vào hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống của cá nhân, tổ chức
1.1. Chuyển từ việc mua hóa đơn VAT do Bộ Tài chính phát hành sang sử dụng hóa đơn tự in
Trước đây, khi sử dụng hoá đơn do Bộ Tài chính phát hành thì hàng tháng doanh nghiệp phải thực hiện thủ tục mua hóa đơn. Cứ từ ngày 20 trở đi, nhân viên kế toán của doanh nghiệp phải xếp hàng rồng rắn tại các chi cục thuế để mua hoá đơn. Nếu suôn sẻ, thì bình quân mỗi nhân viên kế toán mất khoảng 1,5 giờ đồng hồ đi - về, xếp hàng chờ đến lượt mua hoá đơn mất khoảng 1,5 giờ và mất thêm 2 giờ để đóng dấu lên từng tờ hoá đơn. Ngoài ra, hàng tháng, nhân viên kế toán cũng phải mất chừng ấy thời gian chỉ để báo cáo tình hình sử dụng hoá đơn với cơ quan thuế.
Các thủ tục này được đặt ra với các mục đích bảo đảm tuân thủ trong việc nộp thuế giá trị gia tăng (GTGT) thông qua quản lý số lượng hàng hóa, dịch vụ mua vào và bán ra của các đơn vị kinh doanh; cung cấp bằng chứng về lượng thuế GTGT phải nộp cũng như là cơ sở hoàn thuế cho đơn vị kinh doanh; phòng ngừa và hạn chế việc gian lận thuế GTGT. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy ngoài mục tiêu cung cấp bằng chứng về lượng thuế GTGT phải nộp cũng như là cơ sở hoàn thuế cho đơn vị kinh doanh, các TTHC này đã không đạt được các mục tiêu đặt ra là bảo đảm việc tuân thủ trong việc nộp thuế GTGT thông qua việc quản lý số lượng hàng hóa, dịch vụ mua vào và bán ra của các đơn vị kinh doanh; đồng thời, phòng ngừa và hạn chế việc gian lận thuế GTGT. Cụ thể là, đơn vị kinh doanh vẫn có thể gian lận thuế GTGT thông qua việc (1) bán hàng không xuất hóa đơn GTGT; (2) kê khai giá trị hàng hóa khác nhau giữa các liên hóa đơn; (3) làm giả, tẩy xóa hóa đơn có giá trị nhỏ thành hóa đơn có giá trị lớn nhằm kê khai hoàn thuế GTGT.
Với các bất cập nêu trên, các TTHC này được đề xuất đơn giản hóa theo hướng mở rộng các đối tượng được quyền sử dụng hóa đơn tự phát hành theo các tiêu chí được Bộ Tài chính quy định; các tổ chức, cá nhân phải tự tổ chức các điều kiện để có thể tự in hóa đơn để sử dụng trước khi tiến hành hoạt động kinh doanh và chịu trách nhiệm quản lý toàn diện các hóa đơn của mình để phục vụ kinh doanh. Chỉ áp dụng việc mua hóa đơn giá trị gia tăng do Bộ Tài chính phát hành đối với các tổ chức mới thành lập, các tổ chức, doanh nghiệp nhỏ, không có khả năng tự in hóa đơn. Chính phủ đã ban hành và triển khai thực hiện Nghị định số 51/2010/NĐ-CP quy định về hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Quy định tại Điều 6 Thông tư số 39/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 51/2010/NĐ-CP và Nghị định số 04/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định về hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ đã chuyển từ mua hóa đơn VAT do Bộ Tài chính phát hành sang sử dụng hóa đơn tự in đối với các doanh nghiệp, ngân hàng có mức vốn điều lệ từ 15 tỷ đồng trở lên tính theo số vốn đã thực góp đến thời điểm thông báo phát hành hóa đơn.
Theo đánh giá, việc thực hiện cơ chế sử dụng hoá đơn tự in là một trong hai chính sách cải cách TTHC mạnh mẽ nhất của ngành tài chính đã được xã hội đón nhận. Doanh nghiệp đánh giá cao cơ chế này cũng như cơ chế tự tính, tự khai và tự nộp thuế, bởi nó phù hợp với cuộc sống và mang lại những lợi ích thiết thực.
1.2. Bãi bỏ việc đăng ký thang lương, bảng lương của doanh nghiệp ngoài nhà nước
Hàng năm có hàng chục nghìn doanh nghiệp mới thành lập. Theo quy định trước đây, các doanh nghiệp này phải đăng ký hệ thống thang lương, bảng lương (kể cả thang lương, bảng lương được sửa đổi, bổ sung) với cơ quan quản lý nhà nước về lao động tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi đặt trụ sở chính trước khi công bố áp dụng trong doanh nghiệp.
Thực tế cho thấy, quy định này là không cần thiết và can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp vì đây không phải là biện pháp hiệu quả để bảo vệ quyền lợi của người lao động. Quyền lợi của người lao động được bảo đảm trực tiếp thông qua nhiều quy định khác, như: quy định mức lương tối thiểu, thỏa thuận ký kết hợp đồng lao động.... Trên cơ sở đó, doanh nghiệp tự xây dựng thang, bảng lương để cân đối về ngạch, bậc lương và quy chế trả lương, tăng lương phù hợp cho người lao động. Đồng thời, thang, bảng lương chưa phải là cơ sở duy nhất để xem xét, giải quyết khi có tranh chấp lao động về tiền lương, tiền thưởng giữa người lao động và người sử dụng lao động. Sau khi đăng ký, nếu doanh nghiệp không thực hiện theo thang, bảng lương đã đăng ký, thì cơ quan quản lý nhà nước về lao động cũng khó có thể phát hiện và khó xử lý (nhất là đối với trường hợp doanh nghiệp thực hiện các chế độ lương cao hơn, tốt hơn cho người lao động so với thang bảng lương đã đăng ký). Thang, bảng lương không phải là cơ sở trực tiếp để định mức doanh nghiệp phải đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động, vì căn cứ để đóng bảo hiểm xã hội dựa trên danh sách người lao động, hợp đồng lao động (đối với trường hợp lần đầu tham gia bảo hiểm xã hội), quyết định điều chỉnh mức lương (đối với trường hợp người lao động được nâng bậc lương).
Để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong sản xuất, kinh doanh, Chính phủ đã trình và Bộ luật Lao động (sửa đổi) đã được Quốc hội khoá XIII thông qua ngày 18/6/2012, có hiệu lực từ 01/5/2013. Theo đó, thay vì đăng ký thang lương, bảng lương của doanh nghiệp ngoài nhà nước, người sử dụng lao động chỉ cần sao gửi thang, bảng lương cho cơ quan, tổ chức có liên quan để quản lý, theo dõi. Điều này có nghĩa Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào mức tiền lương của người lao động, chỉ quy định mức tiền lương thấp nhất mà người sử dụng lao động phải trả cho người lao động… Thang lương, bảng lương, định mức lao động do các doanh nghiệp tự xây dựng và ban hành theo nguyên tắc quy định của Chính phủ. Trường hợp thay đổi hình thức trả lương phải thông báo cho người lao động biết trước 10 ngày.
1.3. Cho phép doanh nghiệp quyền tự quyết định về hình thức, số lượng và nội dung con dấu của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật
Quy định tại Luật Doanh nghiệp sửa đổi mới được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 26/11/2014 sẽ giúp doanh nghiệp đỡ phiền hà, tốn kém về chi phí, thời gian. Theo quy định mới, không phải tất cả văn bản của doanh nghiệp phải đóng dấu mà chỉ đóng dấu vào văn bản nào pháp luật quy định hoặc do đối tác yêu cầu phải có dấu”. Chẳng hạn, một loạt tài liệu sau này không còn cần dấu như sổ kế toán chỉ cần chữ ký của tổng giám đốc và kế toán trưởng hoặc biên bản họp hội đồng quản trị, các thành viên đã ký thì không cần con dấu.
Khi luật có hiệu lực thi hành, ngành công an cũng không còn quản lý, cấp con dấu cho doanh nghiệp nữa. Lúc đó, doanh nghiệp có thể dùng dấu tròn, vuông, tam giác... như một số nước nhưng vẫn phải có tên, mã số đăng ký kinh doanh đồng thời là mã số thuế để cơ quan quản lý, đối tác nhìn vào nhận biết, hoặc tra cứu trên mạng để tìm. Đây là một điểm cải cách rất nhiều với trước đây, khi doanh nghiệp dùng một con dấu có hình thức như nhau do cơ quan công an cấp, phải ghi cả tên quận, huyện và nếu doanh nghiệp chuyển địa bàn sang quận khác là phải đi sửa dấu, hoặc làm con dấu mới.
2. Quản lý trên cơ sở rủi ro
2.1. Đổi mới phương thức quản lý sản xuất, kinh doanh phân bón
Theo quy định trước đây, cá nhân, tổ chức chỉ được phép sản xuất, kinh doanh phân bón có tên trong Danh mục phân bón được phép sản xuất, kinh doanh và sử dụng ở Việt Nam được ban hành trong từng thời kỳ. Để đưa phân bón mới vào danh mục, doanh nghiệp phải thực hiện quy trình khảo nghiệm, đánh giá, công nhận và chờ ban hành danh mục. Lộ trình này bao gồm: đăng ký nhập khẩu đối với loại ngoài danh mục, kiểm nghiệm, khảo nghiệm, thành lập Hội đồng khoa học thẩm định, công nhận và cuối cùng chờ đưa vào danh mục được phép sản xuất, kinh doanh. Ví dụ, một doanh nghiệp đăng ký sản xuất, kinh doanh một loại phân bón chưa có trong danh mục được phép sản xuất, kinh doanh, phải xin phép nhập khẩu để khảo nghiệm (nếu phân bón không sản xuất trong nước), sau đó đăng ký khảo nghiệm. Hoạt động khảo nghiệm phân bón mất khoảng từ 6 tháng đến 01 năm, trong khi đó nhiều loại phân bón đưa ra khảo nghiệm chỉ khác rất ít về thành phần dinh dưỡng so với khoảng hơn 3500 loại đã có trong Danh mục phân bón. Mặt khác, sau khi có kết quả khảo nghiệm để chờ được xem xét đưa vào danh mục phân bón được phép sản xuất kinh doanh phải thực hiện thêm thủ tục thẩm định, công nhận để đưa vào danh mục mất thêm ít nhất khoảng 03 tháng. Sự chờ đợi trên đôi khi quá dài sẽ mất tính thời sự của sản phẩm phân bón sản xuất ra (hoặc nhập khẩu để kinh doanh) vì mùa vụ đã hết, nguyên liệu chờ trong kho bị giảm chất lượng, các khoản đầu tư của doanh nghiệp cho sản xuất mặt hàng mới sẽ chậm thu hồi vốn.
Trong khi đó, đối với phân bón đã có trong danh mục khi nhập khẩu về Việt Nam vẫn phải thực hiện phân tích chất lượng, nếu kết quả đạt yêu cầu thì mới được thông quan; đối với phân bón lưu thông trong nước, để phát hiện ra phân bón giả, kém chất lượng phải thực hiện việc kiểm tra chất lượng. Việc kiểm tra, phân tích chất lượng đều phải dựa trên các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về quản lý, sử dụng phân bón. Theo quy định của Luật Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn quy định về đặc tính kỹ thuật; quy chuẩn quy định về mức giới hạn của đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý mà sản phẩm, hàng hóa phải tuân thủ để đảm bảo an toàn, vệ sinh, sức khỏe con người, bảo vệ động thực vật và môi trường, bảo vệ quyền và lợi ích của người tiêu dùng. Như vậy, loại phân bón nào khi đạt được các yêu cầu về tiêu chuẩn, quy chuẩn quy định thì đã đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu để đưa vào sản xuất, kinh doanh và sử dụng. Do đó, đối với phân bón, đưa ra các tiêu chuẩn, quy chuẩn, phương pháp lấy mẫu và phân tích mẫu về chất lượng, hàm lượng các chất độc hại vẫn giúp quản lý tốt chất lượng phân bón để đưa ra sản xuất, kinh doanh và hoàn toàn có thể thay thế cho phương thức nêu trên và đã được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng thành công từ nhiều năm nay.
Nghị định số 202/2013/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý phân bón (thay thế Nghị định số 113/2003/NĐ-CP và Nghị định số 191/2007/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 113/2003/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý sản xuất, kinh doanh phân bón) đã thể hiện về cơ bản đầy đủ tinh thần cải cách như trên, giúp người dân và doanh nghiệp bớt khổ mà vẫn đảm bảo được mục tiêu quản lý.
2.2. Công khai các tiêu chí phân loại rủi ro để các doanh nghiệp tự xác định được thuộc đối tượng “hoàn thuế trước, kiểm tra sau” hay “kiểm tra trước, hoàn thuế sau” khi làm thủ tục hoàn thuế
Điều 60 Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 mới quy định chung chung về các đối tượng thuộc diện hoàn thuế trước, kiểm tra sau là “người nộp thuế có quá trình chấp hành tốt pháp luật về thuế và các giao dịch được thanh toán qua ngân hàng thương mại hoặc tổ chức tín dụng khác”. Việc chấp hành tốt pháp luật về thuế ở quy định này phải được hiểu như thế nào, chưa rõ và cần phải được quy định cụ thể tại các văn bản dưới Luật. Tuy nhiên, Điều 30 Nghị định số 85/2007/NĐ-CP của Chính phủ và Khoản 2.6 Mục II Phần G Thông tư số 60/2007/TT-BTC của Bộ Tài chính chỉ quy định về các trường hợp thuộc diện kiểm tra trước, hoàn thuế sau, không quy định rõ ngoài các trường hợp này thì doanh nghiệp có thuộc đối tượng “hoàn thuế trước, kiểm tra sau” hay không.
Vì vậy, Chính phủ đã ban hành Nghị định 106/2010/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 85/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế và Nghị định số 100/2008/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều Luật Thuế thu nhập cá nhân; đồng thời, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 28/2011/TT-BTC hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế, hướng dẫn thi hành Nghị định số 85/2007/NĐ-CP và Nghị định số 106/2010/NĐ-CP, qua đó đã công khai các tiêu chí phân loại rủi ro để các doanh nghiệp xác định được thuộc đối tượng “hoàn thuế trước, kiểm tra sau” hay “kiểm tra trước, hoàn thuế sau” khi làm thủ tục hoàn thuế.
3. Áp dụng nguyên tắc tự chịu trách nhiệm, tăng cường hậu kiểm
3.1. Bãi bỏ thủ tục phê duyệt hồ sơ thiết kế tàu cá
Theo quy định trước đây, việc thiết kế tàu cá phải theo tiêu chuẩn, quy chuẩn nhà nước đã ban hành. Khi đóng mới tàu cá, tổ chức, cá nhân nếu có đủ năng lực có thể tự thiết kế hoặc thuê tư vấn thiết kế tàu cá. Do đã có quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn nên hồ sơ thiết kế tàu cá có thể hoàn toàn do cá nhân, tổ chức hoặc nhà tư vấn thiết kế tự chủ, tự chịu trách nhiệm mà không cần sự can thiệp, kiểm soát quá sâu của cơ quan hành chính nhà nước dẫn đến hành chính hóa các quan hệ dân sự, kinh tế. Bên cạnh đó, tàu cá sau khi hoàn thành việc đóng mới đã phải thực hiện đăng kiểm để kiểm tra kỹ thuật, độ an toàn và đăng ký để cấp giấy chứng nhận mới được đưa vào khai thác, sử dụng.
Vì vậy, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Thông tư số 24/2011/TT-BNNPTNT sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số quy định về TTHC trong lĩnh vực thủy sản, trong đó bãi bỏ thủ tục phê duyệt hồ sơ thiết kế tàu cá.
3.2. Bãi bỏ quy định xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã vào Tờ khai đăng ký lại việc sinh có yếu tố nước ngoài
Rất nhiều trường hợp cá nhân đăng ký lại việc sinh tại thời điểm đăng ký lại so với thời điểm đã đăng ký trước kia có thể là một khoảng cách đến 20 - 30 năm, thậm chí còn dài hơn nữa. Trong khi đó, Sổ bộ lưu trữ lúc trước không còn và người có thẩm quyền xác nhận vào Tờ khai ở thời điểm hiện tại không biết rõ sự việc xảy ra trước kia thì không có căn cứ để xác nhận. Do đó, yêu cầu việc xác nhận của Ủy ban nhân dân vào Tờ khai đăng ký lại việc sinh có yếu tố nước ngoài là không hợp lý, gây khó khăn cả cho cơ quan quản lý, cũng như người thực hiện thủ tục mà chỉ cần quy định người thực hiện thủ tục tự viết bản cam kết và chịu trách nhiệm đối với cam kết của mình trong trường hợp thiếu căn cứ vào Tờ khai để có cơ sở xử lý vi phạm nếu xảy ra.
Khắc phục hạn chế nêu trên, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 06/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về hộ tịch, hôn nhân và gia đình và chứng thực; trong đó sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 59 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP Về đăng ký và quản lý hộ tịch như sau: “Người đi đăng ký lại việc sinh, tử, kết hôn phải nộp Tờ khai (theo mẫu quy định) và xuất trình bản sao giấy tờ hộ tịch đã cấp hợp lệ trước đây (nếu có), nếu không còn bản sao giấy tờ hộ tịch thì viết bản cam đoan về việc đã đăng ký, nhưng không còn lưu được sổ hộ tịch và chịu trách nhiệm về nội dung cam đoan...”
4. Áp dụng các hình thức “nhẹ” hơn
4.1. Chuyển từ phê duyệt sang thông báo (thông báo thay đổi) chuyên gia tính toán của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm
Việc tuyển dụng, sử dụng chuyên gia tính toán là quyền của doanh nghiệp, cơ quan nhà nước chỉ quản lý trên cơ sở yêu cầu, điều kiện. Tuy nhiên, theo quy định trước đây, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm khi có (hoặc khi có sự thay đổi) chuyên gia tính toán phải được sự phê duyệt của cơ quan nhà nước. Việc chờ đợi được phê duyệt của cơ quan nhà nước đôi khi làm ảnh hưởng đến quá trình chủ động trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, hình thức phê duyệt là hình thức không phù hợp.
Nghị định số 123/2011/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm và sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 45/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, theo đó trên cơ sở các quy định về yêu cầu, điều kiện, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm chỉ cần phải thông báo cho Bộ Tài chính biết về chuyên gia tính toán về việc đáp ứng yêu cầu, điều kiện theo quy định kèm theo các giấy tờ, tài liệu chứng minh việc đáp ứng yêu cầu, điều kiện đó (khi thay đổi cũng thực hiện tương tự); đồng thời quy định thời gian cơ quan quản lý phải trả lời và nếu sau thời gian trên mà cơ quan quản lý không có ý kiến, thông báo của doanh nghiệp coi như được chấp thuận để triển khai thực hiện mà không cần phải chờ văn bản của cơ quan hành chính nhà nước.
4.2. Thay thế thủ tục Kiểm định công trình kỹ thuật chuyên ngành viễn thông (kiểm định công trình BTS) bằng Thông báo của Doanh nghiệp về kết quả đo kiểm định và cam kết chịu trách nhiệm về chất lượng công trình viễn thông trước khi đưa vào sử dụng
Thực tế, các thiết bị viễn thông của Việt Nam là nhập khẩu toàn bộ. Các thiết bị này đều đã được đo kiểm định khi xuất xưởng theo quy chuẩn quốc tế. Vì vậy, có thể khẳng định được chất lượng từng thiết bị trước khi lắp đặt tại công trình. Bên cạnh đó, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành đầy đủ các quy chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn bắt buộc áp dụng đối với các thiết bị viễn thông làm căn cứ cho các doanh nghiệp đo kiểm định và tự đo kiểm định chất lượng công trình.
Các doanh nghiệp viễn thông đều đã được các cơ quan có thẩm quyền cấp phép hoạt động và phải chịu trách nhiệm đến cùng về chất lượng, an toàn công trình viễn thông của mình và vì sự “sống còn” của mình, các doanh nghiệp đều thực hiện hoạt động tự kiểm định công trình, bảo dưỡng định kỳ công trình sau lắp đặt.
Quy định cơ quan quản lý thực hiện kiểm định chất lượng công trình viễn thông vừa quá tải cho cơ quan thực hiện kiểm định, không bảo đảm được mục tiêu quản lý của nhà nước, vừa là gánh nặng đối với với doanh nghiệp về thời gian, chi phí (chi phí đo kiểm thiết bị với mức trung bình là 1.700.000đ/trạm, hai là lệ phí kiểm định (thẩm định trên hồ sơ) với mức là 2.500.000đ), nhân lực hỗ trợ việc kiểm định của cơ quan hành chính nhà nước.
Đối với những lô thiết bị BTS có thông số kỹ thuật hoàn toàn giống nhau (nhập khẩu theo lô), doanh nghiệp vẫn phải thực hiện thủ tục kiểm định cho từng trạm. Việc không phân loại thiết bị viễn thông cần kiểm định (theo công suất và vị trí lắp đặt...) dẫn tới doanh nghiệp vẫn phải tiến hành kiểm định toàn bộ các trạm kể cả những trạm có công suất nhỏ và ở những vị trí an toàn không cần kiểm định (trên núi cao, giữa cánh đồng).
Từ các lý do nêu trên, để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Thông tư số 16/2011/TT-BTTTT Quy định về kiểm định thiết bị viễn thông và đài vô tuyến điện, Thông tư số 17/2011/TT-BTTTT Ban hành danh mục thiết bị viễn thông và đài vô tuyến điện bắt buộc kiểm định và Thông tư số 18/2011/TT-BTTTT Ban hành quy trình kiểm định trạm gốc điện thoại di động mặt đất công cộng; theo đó thay thế thủ tục kiểm định bằng thủ tục thông báo của doanh nghiệp về chất lượng công trình viễn thông thông qua kết quả đo kiểm của đơn vị độc lập.
5. Cắt giảm việc cấp giấy phép, chứng chỉ hành nghề
5.1. Bãi bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật sau nhập khẩu
Khi hàng đã qua cửa khẩu về nội địa, trong thực tế đã được kiểm dịch tại cửa khẩu và cấp Giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật nhập khẩu mới cho thông quan nên việc cấp giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật sau nhập khẩu là thủ tục phát sinh không cần thiết, gây tốn kém chi phí, thời gian cho cá nhân/doanh nghiệp. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Thông tư số 18/2011/TT-BNTPTNT bãi bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật sau nhập khẩu.
5.2. Quy định cá nhân có chứng chỉ đào tạo về kiểm định hoặc lấy mẫu là được phép hành nghề mà không cần thực hiện thủ tục chỉ định người kiểm định giống cây trồng nông nghiệp hoặc chỉ định người lấy mẫu giống, sản phẩm cây trồng và phân bón
Về năng lực, người đã tham lớp đào tạo và được cấp chứng chỉ đào tạo kiểm định giống cây trồng hoặc lấy mẫu giống, sản phẩm cây trồng và phân bón thì đã có đủ trình độ để thực hiện công việc này nên việc thực hiện thủ tục chỉ định người kiểm định giống cây trồng là không cần thiết, làm tăng thời gian, chi phí đối với cá nhân. Đồng thời, theo quy định tại Nghị định 59/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện; Nghị định 139/2007/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp thì giống cây trồng và dịch vụ về giống cây trồng là hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện không cấp chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề.
Vì vậy, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Thông tư số 17/2011/TT-BNNPTNT sửa đổi Thông tư số 32/2010/TT-BNNPTNT, theo đó quy định cá nhân có chứng chỉ đào tạo về kiểm định hoặc lấy mẫu là được phép hành nghề mà không cần thực hiện thủ tục chỉ định người kiểm định giống cây trồng nông nghiệp hoặc chỉ định người lấy mẫu giống, sản phẩm cây trồng và phân bón.
5.3. Bãi bỏ thủ tục cấp giấy phép khảo sát khoáng sản
Hoạt động khảo sát đơn giản, diễn ra trong thời gian ngắn và có tính chất định hướng trước khi tiến hành hoạt động thăm dò, khai thác. Đối với thủ tục thăm dò, trước khi tiến hành lập hồ sơ đều phải tiến hành khảo sát thực tế, kể cả đối với các khu vực đã được khảo sát là lãng phí thời gian, cơ hội đầu tư và hiệu quả kinh tế. Bên cạnh đó, hoạt động khảo sát khoáng sản chủ yếu là nghiên cứu tư liệu địa chất về tài nguyên khoáng sản, khảo sát thực địa thu thập tài liệu sẵn có nhằm khoanh định khu vực có triển vọng để thăm dò khoáng sản. Hoạt động này trên thực tế không ảnh hưởng nhiều đến diện tích đất đai, môi trường, an ninh trật tự, sức khỏe cộng đồng, hay đe dọa phá vỡ văn hóa cổ truyền như các hoạt động khoáng sản khác.
Do đó, Chính phủ trình Quốc hội thông qua Luật Khoáng sản năm 2010 (có hiệu lực từ 01/7/2011) và ban hành theo thẩm quyền Nghị định 38/2011/NĐ-CP bãi bỏ thủ tục cấp giấy phép khảo sát khoáng sản.
6. Giảm tần suất thực hiện thủ tục, giảm số lượng đối tượng tuân thủ, kéo dài tối đa thời hạn có hiệu lực của các loại giấy phép, giấy chứng nhận, chứng chỉ…là kết quả của TTHC
Tần suất thực hiện và đối tượng tuân thủ TTHC có ảnh hưởng lớn đến chi phí tuân thủ của các cá nhân, tổ chức khi thực hiện thủ tục. Tần suất thực hiện ảnh hưởng đến chi phí thực hiện TTHC của cá nhân trong năm được tính bằng bội số của số lần thực hiện với chi phí tuân thủ của từng lần thực hiện đó trong 01 năm. Còn số lượng đối tượng tuân thủ ảnh hưởng đến tổng số chi phí tuân thủ mà tất cả các cá nhân, tổ chức phải thực hiện thủ tục đó trong một năm. Đối với thời hạn có hiệu lực của các loại giấy phép, giấy chứng nhận, chứng chỉ…là kết quả của TTHC ảnh hưởng quyết định trực tiếp đến tần suất thực hiện và chi phí thực hiện cho cá nhân, tổ chức. Vì vậy, việc giảm tần suất thực hiện, đối tượng tuân thủ và kéo dài thời hạn có hiệu lực của kết quả thực hiện thủ tục có nghĩa là giúp tiết kiệm tối đa chi phí tuân thủ của cá nhân, tổ chức thực hiện thủ tục trong năm.
- Thông tư số 28/2011/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế, hướng dẫn thi hành Nghị định số 85/2007/NĐ-CP và Nghị định số 106/2010/NĐ-CP của Chính phủ phân loại đối tượng để quy định tần suất kê khai thuế GTGT theo hướng: Các doanh nghiệp nhỏ và vừa kê khai thuế GTGT 03 tháng/lần; các doanh nghiệp lớn: kê khai thuế GTGT 01 tháng/lần.
- Thông tư số 15/2011/TT-BGTVT của Bộ Giao thông vận tải sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 07/2009/TT-BGTVT quy định về đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ đã giảm tần suất, giảm chi phí và thời gian đi lại để thực hiện TTHC. Theo đó, thời hạn có hiệu lực đối với giấy phép lái xe hạng A4, B1, B2 được nâng từ 05 năm lên 10 năm kể từ ngày cấp; với giấy phép lái xe hạng C, D, E, F: nâng từ 03 năm lên 05 năm kể từ ngày cấp.
- Thông tư số 12/2011/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước đã tăng thời hạn có hiệu lực của chứng thư số từ 01 năm lên 05 năm đảm bảo thời gian hợp lý cho thuê bao hoạt động ổn định, giảm chi phí cho cơ quan nhà nước, đối tượng thực hiên.
- Thông tư số 17/2011/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tăng thời hạn có hiệu lực của chứng chỉ công nhận nguồn giống (đối với giống cây công nghiệp và cây ăn quả lâu năm) từ 03 năm lên 05 năm.
7. Bãi bỏ các hồ sơ giấy tờ mang tính chất hình thức, trùng lặp về thông tin với các thành phần hồ sơ đã có hoặc cơ quan quản lý nhà nước đã có các thông tin trong hồ sơ lưu
- Nghị định 106/2010/NĐ-CP của Chính phủ và Thông tư số 28/2011/TT-BTC của Bộ Tài chính bỏ yêu cầu cung cấp: “Bảng kê hồ sơ có chữ ký, đóng dấu của cơ sở (ghi rõ: số, ngày giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài; số, ngày văn bản chấp thuận dự án đầu tư hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư; danh mục hàng hoá xuất khẩu để thực hiện dự án đầu tư tại nước ngoài do Bộ Thương mại cấp (trong đó ghi rõ: chủng loại, số lượng và trị giá hàng hoá)” trong thành phần hồ sơ của thủ tục Hoàn thuế GTGT đối với trường hợp hàng hoá xuất khẩu để thực hiện dự án đầu tư ra nước ngoài (trường hợp kiểm tra trước hoàn sau).
- Khoản 1, Điều 4, Thông tư số 02/2011/TT-BNG của Bộ Ngoại giao bãi bỏ tờ khai xin cấp giấy xác nhận đăng ký công dân trong thành phần hồ sơ của thủ tục đăng ký công dân Việt Nam ở nước ngoài.
- Khoản 7, Điều 1, Thông tư 18/2011/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và PTNT bãi bỏ Giấy đăng ký mã số doanh nghiệp xuất nhập khẩu do cơ quan Hải quan tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cấp trong thành phần hồ sơ của thủ tục Cấp giấy phép nhập khẩu thuốc bảo vệ thực vật.
- Thông tư số 12/2011/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã bãi bỏ yêu cầu nộp Bản sao hợp lệ quyết định thành lập của tổ chức quản lý thuê bao trong thủ tục cấp chứng thư số do trước khi thực hiện thủ tục cấp chứng thư số, tổ chức đã thực hiện thủ tục xin cấp mã ngân hàng. Trong thành phần hồ sơ thủ tục xin cấp mã ngân hàng đã bao gồm “bản sao hợp lệ quyết định thành lập của tổ chức quản lý thuê bao” và được lưu trữ tại cơ quan thụ lý.
8. Giảm thiểu việc phát sinh các thủ tục con trong quá trình chuẩn bị hồ sơ theo yêu cầu của thủ tục
- Thông tư số 215/2010/TT-BTC của Bộ Tài chính đã bỏ quy định yêu cầu công chứng, chứng thực đối với các loại giấy tờ sau trong thành phần hồ sơ: Quyết định hoặc giấy báo tin của cơ quan công an cho phép cá nhân là người Việt Nam định cư ở nước ngoài được phép trở về định cư ở Việt Nam (đối với trường hợp nhập khẩu); hộ chiếu Việt Nam hoặc giấy tờ thay hộ chiếu Việt Nam còn có giá trị về nước thường trú, có đóng dấu kiểm chứng nhập cảnh của cơ quan quản lý xuất nhập cảnh tại cửa khẩu (đối với trường hợp nhập khẩu); văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển tài sản của tổ chức ra nước ngoài (đối với trường hợp xuất khẩu).
- Khoản 1, Điều 4, Thông tư số 02/2011/TT-BNG của Bộ Ngoại giao đã sửa đổi yêu cầu về thành phần hồ sơ của thủ tục đăng ký công dân Việt Nam ở nước ngoài, theo đó yêu cầu chỉ cần cung cấp bản chụp Hộ chiếu và các giấy tờ có giá trị.
- Thông tư số 25/2011/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã sửa đổi, bổ sung một số điều Quy chế quản lý gấu nuôi ban hành kèm theo Quyết định số 95/2008/QĐ-BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, theo đó:
+ Bỏ yêu cầu xác nhận của cơ quan quản lý môi trường cấp tỉnh là trại nuôi đảm bảo yêu cầu về vệ sinh, môi trường vì quy định này là không hợp lý. Trong thành phần hội đồng thẩm định, kiểm tra thực tế để cấp giấy chứng nhận có thành viên và ý kiến của Sở Tài nguyên và Môi trường. Do đó, việc xem xét, thẩm định điều kiện vệ sinh, môi trường có thể tiến hành ngay trong bước thẩm định, kiểm tra thực tế không cần phải xin xác nhận riêng gây tốn kém, mất thời gian thực hiện thủ tục.
+ Bỏ yêu cầu việc xác nhận của UBND cấp xã vào mẫu đơn.
9. Áp dụng các hình thức giải quyết thủ tục qua mạng khi cơ sở hạ tầng cho phép
- Thông tư số 06/2011/TT-BCT ngày 21/3/2011 của Bộ Công Thương bổ sung quy định về cấp chứng nhận xuất xứ qua mạng Internet, theo đó quy định và triển khai thực hiện phương thức cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa C/O qua mạng Internet (Ecosys).
- Thông tư số 22/2010/TT-BTP ngày 06/12/2010 của Bộ Tư pháp hướng dẫn về đăng ký, cung cấp thông tin trực tuyến giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo về việc kê biên tài sản thi hành án.
- Thông tư số 22/2014/TT-BTC ngày 14/02/2014 của Bộ Tài chính Quy định thủ tục hải quan điện tử đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu thương mại tho đó tạo điều kiện thuận lợi về thời gian, chi phí (lưu hồ sơ) cho cả người khai lẫn cơ quan Hải quan./.
ThS. Nguyễn Hùng Huế, ThS. Nguyễn Thị Trà Lê
Cục Kiểm soát thủ tục hành chính, Bộ Tư pháp