Nền kinh tế hiện đại của mỗi quốc gia gồm 3 khu vực lớn là: khu vực nông nghiệp, khai khoáng, khu vực công nghiệp và khu vực dịch vụ, khoa học. Kinh tế dịch vụ thuộc khu vực thứ ba (Tertiary sector)1. Bên cạnh đó, chúng ta đều biết rằng kết cấu của một quốc gia hiện đại bao gồm 3 khối: nhà nước, thị trường và xã hội công dân2. Cùng một loại dịch vụ nhưng ở mỗi khối đều có đặc tính riêng biệt, trong đó không thể không kể đến dịch vụ công. Dịch vụ công là các dịch vụ do Chính phủ cung cấp hoặc do các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tư nhân được Nhà nước uỷ quyền để thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định, phục vụ trực tiếp những nhu cầu thiết yếu của cộng đồng, công dân; theo nguyên tắc không vụ lợi; đảm bảo sự công bằng và ổn định xã hội3. Tuy nhiên, trên thực tế, quá trình cung cấp dịch vụ công của chính phủ đến người dân, cũng như trong quá trình người dân sử dụng dịch vụ, phát sinh nhiều ngoại ứng. Có những ngoại ứng tích cực nhưng cũng có những ngoại ứng tiêu cực, ảnh hưởng không tốt đến xã hội nói chung và tạo thành các vấn đề xã hội.

 

Trong những năm gần đây, nhiều vấn đề xã hội đã trở thành rào cản lớn đối với việc phát triển cung ứng dịch vụ công, thậm chí có những vấn đề đã trở nên khá trầm trọng như: nạn tham nhũng, tệ phong bao, phong bì trong một số dịch vụ, tình hình ô nhiễm môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm... Bản chất của các vấn đề xã hội chính là sự thất bại của thị trường và những vấn đề mà khu vực công, trong phạm vi điều chỉnh hiện tại của mình, chưa thể giải quyết hoặc đã giải quyết nhưng không triệt để. Trước tình hình đó, một lĩnh vực mới thuộc phạm trù quản lý công đang nổi lên mạnh mẽ, đó là huy động sự tham gia của các bên liên quan (các doanh nghiệp, các nhà tài trợ, các tổ chức đoàn thể xã hội và người dân) cùng chung tay với khu vực công để giải quyết các vấn đề xã hội thông qua các phát kiến sáng tạo của doanh nhân xã hội và nhóm cộng đồng.

Bài viết này nhằm giới thiệu sơ bộ về khái niệm sáng tạo, đổi mới vì xã hội trong vai trò là một kênh giúp tăng cường hiệu quả dịch vụ công. Sau khi làm rõ sự thay đổi trong bản chất của quá trình đổi mới, cải cách và nghiên cứu các tác nhân tham gia vào sáng tạo, đổi mới vì xã hội, tác giả trình bày đánh giá sơ lược về những khó khăn, rào cản trên con đường phát triển mở rộng phạm vi của sáng tạo, đổi mới vì xã hội và cuối cùng đưa ra một vài khuyến nghị trong giai đoạn đầu quản lý lĩnh vực khoa học mới này.

 Giới thiệu chung về “Sáng tạo, đổi mới vì xã hội”

Khái niệm

"Sáng tạo, đổi mới vì xã hội là sự sáng tạo mang tính chất xã hội trong cả kết quả và phương tiện thực hiện. Trên phạm vi hẹp, sáng tạo, đổi mới vì xã hội là những ý tưởng mới (sản phẩm, dịch vụ và mô hình) vừa đáp ứng được các yêu cầu của xã hội vừa tạo ra các mối quan hệ và sự hợp tác mới"4 .

Sáng kiến đổi mới để giải quyết các vấn đề xã hội (sáng kiến vì xã hội) là một khái niệm về xây dựng các dạng thức, mô hình tổ chức mới và tương tác qua lại để giải quyết các vấn đề xã hội. Sáng tạo, đổi mới vì xã hội có thể đề cập đến một nhu cầu của xã hội (VD: chăm sóc người cao tuổi), góp phần giải quyết các thách thức liên quan đến xã hội (VD: xã hội có cấu trúc dân số già) và thông qua chiều hướng phát triển của nó (VD: huy động người cao tuổi tham gia các dịch vụ chăm sóc người cao tuổi, hoặc các dịch vụ công mới), nó góp phần tái định hình xã hội theo chiều hướng mở để huy động được rộng rãi các tầng lớp người dân, các tổ chức, đoàn thể tham gia, theo chiều hướng trao quyền và không ngừng học hỏi cập nhật kiến thức mới. Sáng kiến xã hội có thể được định nghĩa là một ý tưởng mới (về sản phẩm, dịch vụ hoặc mô hình) vừa đáp ứng được nhu cầu của xã hội (một cách hiệu quả hơn các biện pháp hiện có) và vừa tạo ra được các mối liên hệ và hợp tác có tính chất xã hội.

Bản chất của sáng tạo, đổi mới vì xã hội

Sáng tạo, đổi mới vì xã hội là những ý tưởng mới, những thể chế mới hoặc cách làm việc mới để đáp ứng các nhu cầu của xã hội hiệu quả hơn (so với các cách tiếp cận hiện có). Thông thường, sáng kiến đổi mới xã hội không chỉ liên quan đến các ý tưởng mới mà còn cấu trúc lại và khám phá ra cách sử dụng mới các ý tưởng, lý thuyết hiện có hoặc chuyển dịch ý tưởng đã cũ ở quốc gia này sang áp dụng ở một quốc gia khác hoặc trên phạm vi vùng, châu lục. Sáng tạo, đổi mới vì xã hội có thể ở dạng một dịch vụ mới, sáng kiến mới, tổ chức mới hoặc một cách tiếp cận mới đến tổ chức và cung ứng dịch vụ. Sáng tạo, đổi mới vì xã hội cũng có thể lan tỏa dưới dạng của ý tưởng, giá trị, phần mềm, các công cụ và các thói quen. Sự sáng tạo theo các nghĩa nêu trên có thể thông qua công cụ truyền thông lan truyền đến các ngành nghề khác nhau và tiếp cận, hỗ trợ các dịch vụ công chủ chốt như giáo dục hoặc y tế.

Sáng tạo, đổi mới vì xã hội có thể nảy sinh từ nhiều nguồn và được áp dụng vào nhiều lĩnh vực. Cội nguồn nảy sinh sáng tạo, đổi mới vì xã hội bao gồm nghiên cứu khoa học, chính sách hay thông qua ý tưởng và hoạt động của các doanh nghiệp xã hội hoặc xuất phát từ các công nghệ mới. Sáng tạo,  đổi mới vì xã hội là một cách tìm tòi để trả lời theo một phương pháp mới, một tư duy mới trước các vấn đề xã hội thông qua xác định và cung ứng các dịch vụ mới có thể làm tăng chất lượng cuộc sống của các cá nhân và cộng đồng.

Những thay đổi trên phạm vi toàn cầu đang ngày càng trở thành động lực chủ chốt dẫn đến sự đổi mới, sáng tạo; những thay đổi về xã hội và môi trường như biến đổi khí hậu, cung cấp nước sạch, bệnh dịch đang mang đến những cơ hội kinh doanh mới có tầm quan trọng và hình thành nên một thị trường mới5, một thị trường sử dụng phương pháp kinh doanh để hỗ trợ Chính phủ giải quyết bền vững các vấn đề xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.

Quy trình sáng tạo, đổi mới vì xã hội

Để hiểu quá trình sáng tạo, đổi mới vì xã hội, chúng ta cần phải nhìn nhận khái niệm này thông qua một lăng kính nhiều tầng bậc, để hiểu các bước khác nhau của quá trình này, từ hình thành ý tưởng đến tác động của nó. Quá trình sáng tạo, đổi mới vì xã hội không có tính chất tuyến tính, thường liên quan đến các vòng phản hồi và có những bước nhảy nhất định lên các cung bậc khác nhau trong toàn bộ quá trình. Điều này có nghĩa rằng các sáng kiến đổi mới, trên thực tế, có dạng thức đường xoắn trôn ốc hơn là những đường thẳng (xem Hình 1).

Các giai đoạn chính của quá trình sáng tạo, đổi mới vì xã hội có thể tóm tắt như sau6:

 

Hình 1: Quá trình sáng tạo, đổi mới vì xã hội

Ý tưởng. Đây là bước đầu tiên thai nghén nên các ý tưởng. Bước này cũng bao gồm tất cả các nhân tố nhấn mạnh đến nhu cầu hoặc khả năng hình thành một phát kiến đổi mới sáng tạo – chẳng hạn như một cuộc khủng hoảng, cắt giảm chi tiêu công hoặc thực trạng năng suất thấp – cũng như những cảm hứng nhen nhóm lên những thay đổi, từ những suy nghĩ trong tưởng tượng đến những bằng chứng mới.  Giai đoạn này liên quan đến việc chẩn đoán vấn đề và khung câu hỏi để giải quyết tận gốc rễ của vấn đề. Nó có vai trò quan trọng đối với hệ thống phản hồi giúp cho những người cung cấp dịch vụ thấu hiểu nhu cầu của người sử dụng và điều chỉnh các dịch vụ cho phù hợp hơn.

Lấy mẫu và thực hiện thí điểm. Đây là bước mà ý tưởng được đưa vào thực tế để kiểm tra và vận hành thí điểm. Bước này có thể được thực hiện bằng cách đơn giản chỉ là thử thực hiện ý tưởng hoặc thực hiện trong giai đoạn thí điểm trên thực tế. Quá trình tinh lọc và thử nghiệm ý tưởng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sáng tạo, đổi mới vì xã hội bởi vì thông qua tính lặp lại, thử và tìm lỗi, có thể tổng kết thành ưu điểm (VD: kết nối người dùng với các chuyên gia) và những mâu thuẫn được giải quyết (bao gồm cả việc chiến đấu với các tư tưởng thủ cựu). Cũng chính qua các quá trình này mà các biện pháp thành công được mọi người công nhận.

Triển khai. Đây là bước mà ý tưởng đi vào thực tế cuộc sống hàng ngày. Nó bao gồm việc trau chuốt ý tưởng và thường phân luồng ý tưởng và xác định các nguồn thu nhập để đảm bảo tài chính bền vững lâu dài cho công ty, doanh nghiệp hoặc hoạt động từ thiện sẽ bảo trợ cho sự đổi mới sáng tạo đến các giai đoạn phát triển tiếp sau.Trong khu vực công, bước này có nghĩa là xác định ngân sách, nhóm người làm và các nguồn lực khác như thể chế hóa quy định thành văn bản quy phạm pháp luật.

Mở rộng quy mô. Trong bước này một loạt các chiến lược phát triển và nhân rộng sáng kiến đổi mới – từ cấp độ phát triển tổ chức, phát triển thông qua việc cấp giấy phép hoạt động và nhượng quyền thương mại cho các tổ chức, liên đoàn và phổ biến thông tin rộng rãi về sáng kiến.

Các đối tượng sáng tạo, đổi mới vì xã hội

Sáng tạo, đổi mới vì xã hội có thể và phải xuất phát từ nhiều khu vực – nhà nước, thị trường, các cá nhân/hộ gia đình. Các sáng kiến đổi mới xã hội có thể di chuyển từ khu vực này sang khu vực khác có liên quan. Hơn thế nữa, nhiều sáng kiến đổi mới xã hội đã được thực hiện thành công thông qua việc thu hút được nhiều bên cùng tham gia, các sáng kiến đổi mới xã hội thú vị nhất thường diễn ra ở vùng biên hoặc vùng giao thoa giữa các khu vực. Vùng giao thoa đậm màu trong sơ đồ dưới đây thể hiện những phần thuộc 4 khu vực có liên quan đến sáng tạo đổi mới xã hội. Sơ đồ này cho thấy không khu vực nào trong số 4 khu vực hoàn toàn liên quan đến sáng kiến xã hội, hay nói cách khác, sáng kiến xã hội không nằm trọn vẹn trong duy nhất một khu vực nào. Trong các đối tượng trên, đối với giai đoạn đầu phát triển, nhà nước và thị trường là hai đối tượng quan trọng cần xem xét.

 

Hình 2: Các đối tượng của sáng tạo, đổi mới vì xã hội

Nhà nước

Các chính phủ ngày càng nhận rõ cần có một sự sáng tạo có tính hệ thống trong chính sách và dịch vụ công. Sáng kiến trong khu vực công có thể diễn ra ở cả 2 dạng: sáng kiến về chính sách và sáng kiến về các mô hình dịch vụ. Trong khu vực công hiện nay có sự chuyển dịch sâu sắc từ các mục tiêu hoạt động và quản lý sang sáng tạo đổi mới. Sự dịch chuyển này là kết quả của nhiều yếu tố, bao gồm áp lực tăng năng suất để đảm bảo nền kinh tế ổn định, sự nhận thức ngày càng rõ ràng về sự thất bại trong khả năng thích ứng và đổi mới trước các thách thức xã hội ngày càng cấp bách có thể trở thành rào cản chính đối với nền kinh tế xã hội.

Nhiều quốc gia riêng lẻ đang dành ra một khoản kinh phí nhất định để hình thành các quỹ mới và các cơ cấu mới để hỗ trợ sáng kiến đổi mới xã hội. Chẳng hạn như Chính phủ Liên hiệp Vương quốc Anh đã đầu tư khoảng 220 triệu bảng cho các quỹ sáng tạo đổi mới vì sức khỏe vùng để giải quyết các thách thức chủ yếu trong lĩnh vực y tế; Tổng thống Hoa Kỳ đương nhiệm cũng đã thành lập Văn phòng Sáng tạo đổi mới xã hội trong Nhà trắng và Quỹ Sáng tạo Giáo dục.

Thị trường tư nhân

Không chỉ Chính phủ và lãnh đạo các ngành nghề trong khu dịch vụ công mà các doanh nghiệp cũng ngày càng quan tâm nhiều hơn đến sáng tạo, đổi mới vì xã hội thông qua các hoạt động từ thiện hoặc đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh vì mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội (giảm đói nghèo, tăng cường sức khỏe sinh sản, giảm thất nghiệp, cứu trợ trẻ em đường phố và người già không nơi nương tựa, tăng cường chất lượng thực phẩm và nước sạch...), sử dụng các biện pháp kinh tế để cải thiện chất lượng các dịch vụ công sẽ mang đến lợi ích trong tăng trưởng cả GDP và việc làm trong một vài thập kỷ tới.

Lĩnh vực sáng tạo, đổi mới vì xã hội hiện đang thu hút các kênh đầu tư quan trọng từ các Chính phủ, các quỹ và các doanh nghiệp. Trong một vài năm tới, có thể khả năng hỗ trợ, quản lý và phát triển các ý tưởng và biện pháp sáng tạo đổi mới sẽ trở thành thế mạnh cạnh tranh trọng tâm giữa các Chính phủ, các doanh nghiệp, các tổ chức phi lợi nhận và các quỹ.

Mối liên hệ giữa sáng tạo, đổi mới vì xã hội và cải cách khu vực công

Mặc dù khu vực công cần sáng tạo đổi mới để đáp ứng được tốt hơn nhu cầu của người dân nhưng chúng ta phải đối mặt với thực tế rằng rất khó định nghĩa và xác định sự sáng tạo đổi mới trong khu vực công. Hơn thế nữa, hiện tại chưa có đủ các tiêu chí định lượng để xác định rõ sự sáng tạo và việc khuyến khích đổi mới khu vực công còn gặp nhiều trở ngại. Do đó, rất cần một khung đo lường có khả năng thể hiện các chỉ số so sánh trên bình diện quốc tế và có thể phản ánh tính chất của sự đổi mới, sáng tạo trong khu vực công, nhất là các động lực và rào cản, từ đó, đưa ra được minh chứng khoa học phục vụ cho quá trình ra quyết định chính sách hiệu quả và thực hiện các bước ngoặt để chuyển tiếp lên một cung bậc phát triển mới theo kịp xu thế chung và phản ánh được đúng nhu cầu đẩy mạnh đổi mới, sáng tạo trong khu vực công.

Các dịch vụ công có hàm lượng kiến thức chuyên môn cao và giá trị gia tăng cao trong tất cả các ngành nghề. Do đó, khu vực công ẩn chứa tiềm năng đổi mới rất to lớn. Đổi mới sáng tạo khu vực công, hay cải cách khu vực công ngày nay được hiểu là nhân tố nền tảng để giải quyết các thách thức của toàn cầu hóa và những thách thức to lớn liên quan đến xã hội, hay còn gọi là “các vấn đề xã hội” đồng thời là tác nhân kích thích khu vực doanh nghiệp đổi mới, sáng tạo. Khu vực công chiếm 45% tổng GDP của Liên minh châu Âu, 15% tổng việc làm trong Liên minh và chiếm 17% GDP về mua sắm đấu thầu công. Hiện tại đang nổi lên nhu cầu mạnh mẽ hướng tới tăng cường hiệu quả, quản trị tốt hơn và thu hút được sự tham gia của nhiều bên hơn vì áp lực không ngừng đối với ngân sách và nguồn lực con người.

Sáng tạo, đổi mới vì xã hội: Thuận lợi và khó khăn

Mặc dù xuất phát từ một mục đích tốt đẹp, quá trình thí điểm có nhiều đặc trưng, cùng với mức độ cam kết cao, khả năng sáng tạo và đặc biệt là xu hướng toàn cầu hóa trong đổi mới xã hội, lĩnh vực này còn thiếu hệ thống cơ sở hạ tầng đủ phức tạp và đa dạng của một lĩnh vực liên quan đa ngành.

Có thể nêu một số động lực thúc đẩy sáng tạo, đổi mới vì xã hội như sau:

• Chính phủ: nhận dạng được nhu cầu đổi mới sáng tạo trong dịch vụ công và chính sách công

• Doanh nghiệp: nhận thức được tầm quan trọng của lĩnh vực xã hội trong nền kinh tế và sự tăng trưởng trong các yếu tố chủ chốt như y tế, các ngành công nghiệp xanh...

• Các tổ chức đoàn thể xã hội: liên kết, tham gia cùng với các doanh nghiệp

• Người dân: mong ước được đóng góp vào quá trình xây dựng các dịch vụ và các giải pháp đổi mới, sáng tạo.

Bên cạnh đó, còn tồn tại nhiều thách thức và rào cản đối với sự phát triển của lĩnh vực sáng tạo, đổi mới vì xã hội, bao gồm những rào cản về: (i) Công tác tài chính và mở rộng quy mô, (ii) Quản trị và điều phối, (iii) Thể chế hóa mô hình tổ chức và nguyên tắc hoạt động của hoạt động sáng tạo, đổi mới vì xã hội, (iv) Đào tạo, bồi dưỡng nhận thức và kĩ năng (v) Thiếu dữ liệu và công cụ đánh giá, đo lường.

Sau đây, sẽ đi sâu phân tích về những khó khăn trong công tác quản trị và điều phối, chủ yếu là điều phối chính sách và điều phối hoạt động.

Từ góc độ điều phối chính sách, đổi mới, sáng tạo vì xã hội gặp nhiều trở ngại mà đa số các rào cản đó bắt nguồn từ thiếu sự điều phối chính sách quy định mối quan hệ, quyền lợi và trách nhiệm giữa nhiều tác nhân cùng liên quan đến đổi mới, sáng tạo vì xã hội, đồng thời cũng thiếu điều phối giữa nhiều bên tham gia (mạng lưới giữa các nhà phát minh, sáng tạo vì xã hội, các thể chế tài chính,... sau đây được gọi chung là điều phối hoạt động). Từ khía cạnh thứ nhất, chỉ có rất ít các tổ chức hoạt động với vai trò thể chế quy định rõ ràng trách nhiệm trong lĩnh vực đổi mới, sáng tạo vì xã hội. Nhìn chung, thế mạnh chính sách gắn với sáng tạo vì xã hội đang lan rộng ra khắp các tác nhân thể chế ở các cấp độ khác nhau. Hiện trạng này làm nảy sinh hiện tượng trùng lặp, thiếu điều phối và thậm chí là mâu thuẫn (VD: Nhà nước nhập công nghệ mới không phù hợp với nhu cầu của xã hội). Mặc dù căn nguyên của tình hình này còn do bản chất đổi mới sáng tạo vì xã hội đòi hỏi sự liên kết theo chiều ngang đa ngành, đa lĩnh vực và các chính sách điều chỉnh có liên quan (từ chính sách xã hội đến chính sách môi trường và chính sách đổi mới). Tuy nhiên, nếu thiếu điều phối sẽ dẫn đến tình trạng các biện pháp can thiệp chỉ phát huy tác dụng trước mắt, trong phạm vi hẹp mang tính chất cục bộ, nếu xét trong tổng thể sẽ trở thành chồng chéo và không ăn khớp với nhau. Thật vậy, giá trị của các lĩnh vực khác nhau và sự cạnh tranh thường trực đã khiến cho việc quản trị sáng tạo, đổi mới vì xã hội không thể tập trung trong phạm vi quyền lực của một tổ chức đơn lẻ mà thay vào đó sẽ tăng cường sự điều phối trong khi vẫn đảm bảo sự tham gia của các bên trong quá trình hoạch định chiến lược và giám sát sự thống nhất của các hoạt động trong quá trình thực hiện. Quan điểm như vậy cũng phù hợp để áp dụng trên phạm vi vùng, quốc gia, nhóm liên minh châu lục như Liên minh châu Âu (EU) và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), với ý nghĩa này, các hoạt động thúc đẩy sự điều phối giữa các cấp độ nêu trên đóng vai trò vô cùng quan trọng.

Từ góc độ điều phối hoạt động, các lĩnh vực tập trung nhiều ý tưởng và giải pháp sáng tạo, đổi mới đều được gắn kết lại với nhau một cách chặt chẽ thành mạng lưới, giúp lan truyền các bài học, chia sẻ và phổ biến các kinh nghiệm thực tiễn điển hình và các mô hình mới. Có thể kể tên một số mạng lưới đang nổi trong lĩnh vực đổi mới sáng tạo vì xã hội như mạng lưới phát triển đô thị bền vững URBACT. Mạng lưới này xuất hiện năm 2003 và là nền tảng để xây dựng các chương trình Đô thị I và II của Liên minh châu Âu (EU). Một ví dụ khác là Mạng lưới Chương trình Sáng kiến vì cộng đồng của Liên minh châu Âu (EQUAL). Mạng lưới này do Quỹ Xã hội châu Âu tài trợ kinh phí, có đầu mối ở hầu hết các ngành nghề, tiểu ngành, kết hợp nhiều loại nguyên tắc và giai đoạn sáng tạo và lộ trình cải cách khác nhau. Tuy nhiên, hiện tại, mạng lưới này đang đối mặt với một hạn chế lớn, đó là các tổ chức đầu mối còn tồn tại rời rạc, chưa hiểu rõ nhau, trao đổi thông tin chưa thông suốt và thiếu nhận thức đầy đủ về tổng thể mạng lưới.

Giai đoạn mở rộng phạm vi các giải pháp đổi mới vì xã hội cần có nhóm đối tượng quan trọng mà trong công trình nghiên cứu của mình, Ủy ban cố vấn chính sách châu Âu - BEPA7  dùng phép ẩn dụ gọi nhóm đối tượng đó là những “con ong”. Đó chính là các đầu mối trong cộng đồng, bao gồm các tổ chức có quy mô nhỏ, các cá nhân và các nhóm có sáng kiến hoặc ý tưởng đổi mới và năng động, hoạt động và di chuyển không ngừng và nhanh như những con ong mang “phấn hoa” bay qua bay lại tìm “những bông hoa lớn nhất”.  “Bông hoa lớn” là hình ảnh ẩn dụ của các tổ chức có thẩm quyền và quy mô lớn như các Chính phủ, các tập đoàn, các tổ chức liên hiệp. Các tổ chức này thường phản ứng không thường xuyên và nhanh nhạy với các giải pháp đổi mới vì xã hội nhưng lại có khả năng tổ chức và triển khai rất tốt và có khả năng ứng biến với nhiều đổi thay trên nhiều cấp độ, phạm vi, có một hệ thống các cơ quan thừa hành giúp việc và một khi đã quyết định thực hiện cải cách thì quyết định có hiệu lực mạnh mẽ và khả thi cao. Phần lớn sự thay đổi của xã hội là kết quả của sự phối hợp của cả hai quan điểm trên. Tuy nhiên, hiện tại, sự chưa thống nhất về định nghĩa của khái niệm đổi mới, sáng tạo vì xã hội, việc thiếu cơ quan điều phối và chưa xác định vai trò điều phối rõ ràng, bao gồm cả điều phối chính sách và điều phối hoạt động cùng với hạn chế trong nhận thức của các doanh nghiệp và các tổ chức, đoàn thể xã hội cũng như khái niệm đổi mới sáng tạo vì xã hội còn mới so với các loại hình văn hóa tổ chức hiện có là những khó khăn, rào cản đối với sự phát triển của lĩnh vực này.

Khuyến nghị

Sáng tạo, đổi mới vì xã hội đã và đang được phát triển thông qua một quy trình “từ dưới lên”. Quy trình này hiện còn ít được khái quát hóa để tổng hợp thành các lý thuyết về sáng tạo, đổi mới vì xã hội và các hệ giá trị của sáng tạo, đổi mới vì xã hội. Do đó, cần phát triển trước tiên về phương pháp luận để xây dựng được hệ thống đánh giá đo lường phân tích chi phí lợi ích trên quan điểm kinh tế, xã hội, môi trường, văn hóa và chính sách, bao gồm cả tỷ lệ hồi vốn tính bằng lợi ích cho xã hội trên các khoản đầu tư cho các hoạt động sáng tạo, đổi mới vì xã hội.

Ngoài phát triển nghiên cứu về lý thuyết đối với sáng tạo, đổi mới vì xã hội, nhằm tạo điều kiện phát triển các giải pháp sáng tạo, đổi mới vì xã hội để tăng cường hiệu quả dịch vụ công, còn một số điểm khuyến nghị như sau:

• Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho các tổ chức, cá nhân về sáng tạo, đổi mới vì xã hội và kênh huy động nguồn lực tài chính, nhân lực, công nghệ để thực hiện đổi mới, sáng tạo vì xã hội nhằm tăng cường hiệu quả dịch vụ công của chính phủ

• Về khâu đánh giá: Xây dựng một nền văn hóa và các phương pháp đánh giá tiên lượng trước khi thực hiện và đánh giá trong quá trình thực hiện các giải pháp sáng tạo, đổi mới vì xã hội

• Về lập pháp: Rà soát lại hệ thống văn bản pháp luật để xác định được các động lực và rào cản về mặt chính sách đối với phát triển các giải pháp sáng tạo, đổi mới xã hội làm công cụ để tăng cường hiệu quả cung ứng và sử dụng dịch vụ công, bao gồm các rào cản trong các quy định về quản lý, điều hành và các thủ tục mua sắm đấu thầu công.

• Về mặt tài chính: Nghiên cứu các công cụ tài chính hiệu quả và các mô hình áp dụng thành công phương pháp hợp tác công tư (PPP).

• Tăng cường nghiên cứu các kỹ năng thiết yếu mà các tổ chức, cá nhân thực hiện đổi mới, sáng tạo vì xã hội cần có và các kỹ năng bổ trợ (bao gồm thu hút chất xám từ đội ngũ trí thức, nhóm văn nghệ sĩ để thực hiện truyền thông).

• Nghiên cứu và xây dựng các chỉ số đổi mới, sáng tạo vì xã hội.

• Nhận dạng, thu thập và phân tích dữ liệu: cần có các tiêu chí chung để xây dựng quy trình có tính hệ thống để thu thập và phân tích số liệu.

• Đánh giá, đo lường mức độ cải thiện của dịch vụ công và hiệu quả giải quyết các vấn đề xã hội và tác động đến các chất lượng cuộc sống của người dân trên các phương diện (cơ bản là giáo dục, y tế, môi trường) và đời sống kinh tế - xã hội nói chung. Đồng thời phải xác định được giá trị xã hội và vị trí của các giá trị xã hội đó trong tổng sản phẩm quốc gia.

• Nhân rộng các giải pháp đổi mới, sáng tạo vì xã hội điển hình với vai trò là công cụ hỗ trợ tăng cường hiệu quả dịch vụ công.

ThS. Nguyễn Thị Quỳnh Giang

Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ

 

GHI CHÚ

  1. Theo Clark, C., 1957[1940], The conditions of economic progress, MacMillan & Co LTD, London và Fourastié, J., 1949, Le grand espoir du XX siècle, Presses Universitaires de France, Paris.

 2.  Theo TS. Phạm Sỹ Liêm, Viện Nghiên cứu Đô thị và Phát triển Hạ tầng, Đề tài NCKH cấp nhà nước “Tổ chức và các giải pháp phát triển không gian dịch vụ công cộng tại các đô thị Việt Nam trong tương quan vùng đô thị”, Hà Nội, 2010

  3. Phạm Quang Lê trong sách “Dịch vụ công và xã hội hoá dịch vụ công - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (Chu Văn Thành chủ biên. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội. 2004) đã định nghĩa dịch vụ công là “những hoạt động của các tổ chức nhà nước hoặc của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tư nhân được Nhà nước uỷ quyền để thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định, phục vụ trực tiếp những nhu cầu thiết yếu của cộng đồng, công dân; theo nguyên tắc không vụ lợi; đảm bảo sự công bằng và ổn định xã hội ”, và cho rằng dịch vụ công bao gồm dịch vụ sự nghiệp công  (hoặc phúc lợi công cộng), dịch vụ công ích và dịch vụ hành chính công, đồng thời  nhấn mạnh là không được lẫn lộn với hoạt động công vụ (civil services) là hoạt động hàng ngày của bộ máy công quyền.

  4. Caulier-Grice, J., Kahn, L., Mulgan, G., Pulford, L. & Vasconcelos, D (2010) Study on Social Innovation: A paper prepared by the Social Innovation eXchange (SIX) and the Young Foundation for the Bureau of European Policy Advisors. Young Foundation/European Union 

 5. For and in-depth description of European Commission funding streams and programmes supporting social innovation see Hubert, A. (2010) Empowering People, Driving Change:  Social Innovation in the European Union. Bureau of European Policy Advisors (BEPA).

6. Murray, R., Caulier-Grice, J. & Mulgan, G. (2010) The open book of social innovation London: National Endowment for Science, Technology and the Arts. Available Online: www.nesta.org.uk/ library/documents/Social_Innovator_020310.pdf

7. BEPA, “Empowering people, driving change: Social innovation in the European Union”, June 2012

6. Murray, R., Caulier-Grice, J. & Mulgan, G. (2010) The open book of social innovation London: National Endowment for Science, Technology and the Arts. Available Online: www.nesta.org.uk/ library/documents/Social_Innovator_020310.pdf

7. BEPA, “Empowering people, driving change: Social innovation in the European Union”, June 2012