Hệ thống quản lý chất lượng (HTQLCL) trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước theo tiêu chuẩn TCVN ISO là mô hình về phương pháp quản lý, là công cụ hỗ trợ để các cơ quan kiểm soát và đạt hiệu quả cao trong hoạt động của mình; tạo dựng một phương pháp làm việc khoa học: xác định rõ việc (làm gì); rõ người (ai làm), và rõ cách làm (theo trình tự nào, theo quy trình nào, theo biểu mẫu nào...); rõ thời gian thực hiện từng công đoạn (bao nhiêu ngày làm việc) nhằm khắc phục nhược điểm phổ biến lâu nay của quản lý hành chính là làm theo thói quen, kinh nghiệm, tuỳ tiện…
Xây dựng và áp dụng HTQLCL theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001 vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước là yêu cầu bắt buộc tại Quyết định số 144/2006/QĐ-TTg ngày 20/6/2006 và Quyết định số 118/2009/QĐ-TTg ngày 30/9/2009 của Thủ tướng Chính phủ.
Qua bảy năm triển khai thực hiện Quyết định số 144/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, việc áp dụng HTQLCL theo TCVN ISO 9001 vào hoạt động của Bộ Nội vụ đã mang lại hiệu quả thiết thực, hỗ trợ đắc lực mục tiêu cải cách hành chính trong nội bộ cơ quan, nâng cao chất lượng phục vụ tổ chức, công dân - chính là các "khách hàng" - trong quá trình thực hiện "giao dịch" với Bộ Nội vụ.
1. Kết quả đạt được trong xây dựng và áp dụng HTQLCL tại Bộ Nội vụ
Bộ Nội vụ là một trong những Bộ đầu tiên triển khai xây dựng và áp dụng HTQLCL theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001 trong toàn khối cơ quan Bộ. Đây là một quá trình bao gồm nhiều bước, từ đào tạo nâng cao nhận thức về ISO; đào tạo kỹ năng xây dựng các văn bản, quy trình trong HTQLCL; xác định phạm vi của HTQLCL; soạn thảo và xem xét, phê duyệt các tài liệu, quy trình trong HTQLCL đến đánh giá nội bộ, đánh giá chứng nhận và duy trì, cải tiến HTQLCL.
HTQLCL hiện nay của cơ quan Bộ Nội vụ bao gồm 41 tài liệu, quy trình phù hợp với tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008. Hệ thống này được áp dụng cho hoạt động quản lý nhà nước về một số lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ, bao gồm: tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; tổ chức chính quyền địa phương; quản lý địa giới hành chính; quản lý hội và các tổ chức phi chính phủ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà nước.
Về phạm vi áp dụng, 15 đơn vị tại cơ quan Bộ Nội vụ gồm Văn phòng Bộ, Thanh tra Bộ và các Vụ thuộc Bộ phải áp dụng toàn bộ các tài liệu, quy trình trong HTQLCL; đối với một số quy trình liên quan tới công tác quản lý, điều hành trong nội bộ Bộ Nội vụ như các quy trình do Văn phòng Bộ và Vụ Tổ chức cán bộ chủ trì xây dựng, ngoài các đơn vị thuộc khối cơ quan Bộ, các đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ và các cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ, các tổ chức như Văn phòng chuyên trách Đảng ủy, Công đoàn, Đoàn Thanh niên Bộ đều phải áp dụng trong quá trình thực thi nhiệm vụ được giao.
a) Kết quả đạt được trong triển khai xây dựng các quy trình trong HTQLCL
Với tổng số 41 tài liệu, quy trình ISO như hiện nay, Bộ Nội vụ đã xây dựng và áp dụng ISO vào giải quyết một số thủ tục hành chính trong phạm vi Đề án 30 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Việc xây dựng các quy trình ISO của Bộ Nội vụ trong khoảng thời gian tương đối ngắn; tiến độ đề ra được đảm bảo. Các tài liệu, quy trình bắt buộc nhằm duy trì, cải tiến Hệ thống được xác định và xây dựng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Bộ Nội vụ.
Chất lượng các quy trình về cơ bản đảm bảo được ba yêu cầu của tiêu chuẩn TCVN ISO là: rõ trách nhiệm của từng người, rõ thời gian giải quyết từng việc, rõ trình tự thực hiện từng bước. Đặc biệt, thời gian giải quyết từng công đoạn trong một quy trình giải quyết công việc cơ bản được xác định theo tinh thần cải cách hành chính, quy định thời gian ngắn nhất có thể để đáp ứng tốt nhất mong đợi của tổ chức, cá nhân có liên quan, nâng cao trách nhiệm của công chức, viên chức cơ quan Bộ Nội vụ. Đồng thời, các quy trình này cũng tuân thủ và kịp thời cập nhật các quy định hiện hành.
Ngoài ra, kỹ thuật trình bày và nội dung của các quy trình đảm bảo yêu cầu theo hướng dẫn của Bộ tiêu chuẩn ISO. Các quy trình về cơ bản đều có lưu đồ và diễn giải, rất rõ ràng và thuận lợi cho người lần đầu tiếp cận. Do đó, các quy trình này rất dễ theo dõi, giám sát quá trình thực hiện.
Từ phạm vi của HTQLCL, có thể thấy rằng Hệ thống này bao gồm rất nhiều quy trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Bộ Nội vụ mà không thuộc diện bắt buộc phải xây dựng và áp dụng ISO theo Quyết định số 118/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Trong đó, có các quy trình rất nhạy cảm và đòi hỏi phải nêu cao trách nhiệm của Lãnh đạo Bộ như Quy trình trình ký văn bản, Quy trình xử lý công văn đi.... Các quy trình này được duy trì, đánh giá và sửa đổi, bổ sung hàng năm, chứng tỏ quyết tâm của Bộ Nội vụ trong việc gương mẫu đi đầu áp dụng ISO, nâng cao chất lượng cải cách hành chính trong nội bộ cơ quan.
b) Kết quả trong việc áp dụng các quy trình trong HTQLCL
Nhờ áp dụng các quy trình ISO trong HTQLCL của cơ quan Bộ, nhận thức, trách nhiệm của công chức, viên chức và chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của các đơn vị đã nâng lên rõ rệt. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, Lãnh đạo Bộ, thủ trưởng các đơn vị thuộc cơ quan Bộ có thể điều hành công việc nội bộ trôi chảy và có hiệu quả hơn nhờ thiết lập cơ chế giải quyết công việc rành mạch và thống nhất, xác định rõ trách nhiệm của lãnh đạo và công chức trong quy trình xử lý công việc; kiểm soát được toàn bộ quá trình xử lý công việc tại cơ quan, đơn vị; nắm rõ công việc ai đang làm và có đúng tiến độ hay không; hạn chế được cách thức giải quyết công việc tuỳ tiện theo chủ quan của công chức, viên chức cấp dưới; có thể đánh giá được mức độ hoàn thành công việc của công chức, viên chức cấp dưới, từ đó làm căn cứ cho công tác bình bầu thi đua khen thưởng, đánh giá nhận xét cuối năm đối với công chức, viên chức một cách công bằng, khách quan, xác thực hơn.
Thứ hai, nhờ áp dụng các quy trình ISO, đã góp phần giúp công chức, viên chức cơ quan Bộ Nội vụ tổ chức thực hiện công việc khoa học hơn; bước đầu tạo sự chuyển biến trong nhận thức về vai trò của công chức, viên chức khi thi hành nhiệm vụ: công chức là cầu nối giữa luật pháp và tổ chức, công dân, có trách nhiệm hướng dẫn tổ chức, công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, cần có thái độ ân cần, cởi mở khi giao tiếp với tổ chức, công dân.
Thứ ba, các đơn vị thuộc khối cơ quan Bộ đã có ý thức hơn trong việc tổ chức thu thập, sắp xếp, lưu trữ các loại văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hướng dẫn của cơ quan cấp trên làm căn cứ thực hiện công việc theo chức năng, nhiệm vụ được phân công, để tham chiếu khi cần; hồ sơ tài liệu được sắp xếp ngăn nắp và có hệ thống theo từng lĩnh vực công việc. Áp dụng ISO là tiền đề, góp phần tạo điều kiện thuận lợi để triển khai việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình quản lý và tác nghiệp hồ sơ.
Thứ tư, công chức, viên chức cơ quan Bộ Nội vụ được đào tạo, tập huấn hoặc bắt buộc phải tự tìm hiểu để nâng cao về kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ nhằm đáp ứng yêu cầu công việc theo các quy trình ISO; do được phân công rõ ràng trách nhiệm nên việc đánh giá năng lực chuyên môn, kết quả công việc khách quan hơn.
Thứ năm, các tổ chức, công dân - những "khách hàng" của Bộ Nội vụ nhận được những "dịch vụ” tốt hơn, không mất nhiều thời gian đi lại, chờ đợi; sự hài lòng về chất lượng phục vụ của Bộ Nội vụ ngày càng được nâng cao; đồng thời áp dụng HTQLCL làm giảm thiểu sự nhũng nhiễu, gây phiền hà của công chức, viên chức trong thực thi nhiệm vụ. Tổ chức, công dân đến cơ quan Bộ được hướng dẫn, trả kết quả xử lý đúng hẹn… là một bước tiến rất quan trọng trong tiến trình cải cách thủ tục hành chính ở Bộ Nội vụ; đây là biện pháp để kiểm tra, giám sát việc thực hiện trên thực tế các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Nội vụ, đặc biệt là với các quy định về thời gian xử lý hồ sơ, về phí, lệ phí, về việc áp dụng thống nhất các biểu mẫu… từ đó nghiên cứu, kiến nghị sửa đổi hoặc sửa đổi cho phù hợp với đặc điểm từng địa phương, ban ngành, tránh bị chồng chéo, rườm rà các thủ tục, giấy tờ không cần thiết.
Đặc biệt, đối với Bộ Nội vụ, các thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực vô cùng nhạy cảm như công chức, viên chức, quản lý hội và tổ chức phi chính phủ, quỹ xã hội và quỹ từ thiện... thì việc áp dụng HTQLCL theo tiêu chuẩn TCVN ISO càng mang lại ý nghĩa to lớn và có tác động trở lại đối với quá trình thực hiện cải cách thủ tục hành chính của Bộ Nội vụ nói riêng và trong toàn quốc nói chung.
Thứ sáu, áp dụng HTQLCL tại cơ quan Bộ Nội vụ giúp tìm ra biện pháp để cải cách thủ tục hành chính của Bộ Nội vụ; việc công bố công khai các yêu cầu về hồ sơ, tài liệu, công khai quy trình xử lý công việc, công khai kết quả xử lý cuối cùng, công khai yêu cầu về thời gian giải quyết thủ tục hành chính đã tạo điều kiện để người dân cùng giám sát công chức, viên chức; giám sát các thủ tục hành chính có được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật hay không, từ đó kiến nghị sửa đổi, chỉnh lý văn bản quy phạm pháp luật cho phù hợp với tình hình thực tế.
2. Thuận lợi và khó khăn trong quá trình xây dựng và áp dụng HTQLCL tại Bộ Nội vụ
a) Thuận lợi
Trong quá trình xây dựng và áp dụng HTQLCL, Bộ Nội vụ có những thuận lợi như sau:
Thứ nhất, Lãnh đạo Bộ Nội vụ luôn xác định phải thực hiện nghiêm, có hiệu quả việc xây dựng và áp dụng ISO trong cơ quan Bộ theo đúng tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ để góp phần cải tiến lề lối làm việc của công chức, góp phần làm tốt công tác cải cách hành chính trong nội bộ cơ quan Bộ. Do đó, Bộ trưởng đã giao cho 01 đồng chí Thứ trưởng làm Trưởng Ban trực tiếp chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ này. Sự quan tâm và quyết tâm thực hiện của lãnh đạo cao nhất chính là một yếu tố quan trọng, thuận lợi cho quá trình xây dựng và áp dụng HTQLCL tại cơ quan Bộ.
Thứ hai, ngay từ năm 2004, khi Thủ tướng Chính phủ chưa có chỉ đạo về việc bắt buộc áp dụng ISO trong các cơ quan hành chính nhà nước, Văn phòng Bộ Nội vụ đã triển khai thí điểm việc xây dựng và áp dụng HTQLCL theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001: 2000 đối với các công việc thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ của Văn phòng Bộ. HTQLCL này đã được Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ cấp Giấy chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn TCVN ISO 9001: 2000 từ năm 2006. Do đó, Văn phòng Bộ với vai trò thường trực Ban Chỉ đạo ít nhiều đã có kinh nghiệm trong việc triển khai xây dựng và áp dụng ISO. Đây là một yếu tố thuận lợi giúp cho Bộ Nội vụ có thể giảm được phần nào sự bỡ ngỡ và có thái độ chủ động hơn, tự tin, mạnh dạn trong xây dựng và áp dụng ISO trên phạm vi toàn cơ quan.
Thứ ba, do được quán triệt tốt, về cơ bản, lãnh đạo và công chức ở các đơn vị thuộc cơ quan Bộ có xây dựng, áp dụng HTQLCL theo tiêu chuẩn ISO bước đầu đều nhận thức được ý nghĩa, vai trò tích cực của hoạt động này và quyết tâm thực hiện tốt.
Thứ tư, bên cạnh kinh nghiệm của Văn phòng Bộ với vai trò Thường trực Ban Chỉ đạo, nhìn chung công chức, viên chức cơ quan Bộ Nội vụ được đào tạo bài bản, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, nắm bắt nhanh các kiến thức về ISO và áp dụng ISO vào công việc của cơ quan, đơn vị. Đây cũng là một lợi thế trong quá trình xây dựng và áp dụng ISO vào hoạt động của Bộ Nội vụ.
b) Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi, Bộ Nội vụ cũng gặp không ít khó khăn trong quá trình xây dựng và áp dụng HTQLCL như:
Thứ nhất, HTQLCL theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001 là HTQLCL khoa học, phù hợp để áp dụng cho các quy trình sản xuất các sản phẩm hữu hình, dễ đo lường kết quả. Điều này đã được chứng minh với hàng loạt sản phẩm hàng hoá trên thế giới, khu vực và trong nước đạt tiêu chuẩn ISO.
Tuy nhiên, đối với các cơ quan hành chính nhà nước nói chung và Bộ Nội vụ nói riêng, xây dựng và áp dụng HTQLCL theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001 là một công việc khá mới và khó khăn. Mới vì đây là yêu cầu mới được đặt ra trong một nền hành chính ở trình độ phát triển chưa cao như Việt Nam, kinh nghiệm ở trong nước và ngoài nước về thực hiện nhiệm vụ này chưa nhiều. Khó khăn vì "sản phẩm" của các cơ quan hành chính hầu hết là các văn bản quản lý nhà nước nên việc đo lường "chất lượng" của các văn bản này cũng như đo lường "sự hài lòng của khách hàng" - những đối tượng phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước - chỉ mang tính tương đối, rất khó định lượng.
Thứ hai, đội ngũ công chức được phân công thực hiện nhiệm vụ triển khai Đề án ISO của Bộ Nội vụ mỏng, làm việc không chuyên trách nên đôi khi không chủ động về thời gian; kiến thức, kỹ năng về ISO còn hạn chế, chưa được cập nhật thường xuyên, kịp thời cũng ảnh hưởng tới chất lượng xây dựng, áp dụng HTQLCL.
Thứ ba, nhận thức về ISO 9000, ISO 9001 và tầm quan trọng của việc xây dựng và áp dụng ISO trong giải quyết công việc của các đơn vị, các công chức, viên chức Bộ Nội vụ nhìn chung còn ở mức độ chưa cao. Do đó, có tình trạng một vài đơn vị đôi khi chưa thật sự trách nhiệm, chủ động và nhiệt tình trong triển khai xây dựng, áp dụng các quy trình ISO, còn có hiện tượng trông chờ, dựa dẫm, "khoán trắng" cho đơn vị thường trực Ban Chỉ đạo.
Việc xây dựng và áp dụng ISO tại cơ quan Bộ Nội vụ được triển khai trong bối cảnh vừa có những thuận lợi, vừa có những khó khăn đan xen nhau. Bộ Nội vụ đã cố gắng phát huy tối đa mặt thuận lợi và hạn chế thấp nhất những khó khăn, vướng mắc khi tiến hành xây dựng, áp dụng HTQLCL và đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận.
3. Một số tồn tại, hạn chế
Phạm vi áp dụng của HTQLCL chưa đầy đủ theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ
Theo quy định tại Quyết định số 118/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, các cơ quan hành chính nhà nước bắt buộc phải xây dựng và áp dụng ISO vào giải quyết toàn bộ các thủ tục hành chính được công bố theo Đề án 30 sau khi các thủ tục này được đơn giản hoá. Tuy nhiên, phạm vi áp dụng HTQLCL của cơ quan Bộ Nội vụ chỉ là một phần trong toàn bộ các hoạt động liên quan đến giải quyết thủ tục hành chính cho cá nhân, tổ chức tại cơ quan Bộ.
Các thủ tục hành chính chưa xây dựng và áp dụng ISO tại cơ quan Bộ Nội vụ là các thủ tục hành chính trong lĩnh vực hội, tổ chức phi chính phủ, quỹ xã hội, quỹ từ thiện.
Chất lượng của một số quy trình ISO trong HTQLCL chưa thật sự đảm bảo theo yêu cầu
Trên thực tế có một số quy trình trong HTQLCL của cơ quan Bộ Nội vụ được quy định chưa thật sự hợp lý, hoặc chưa thật sự mang tinh thần cải cách nhằm nâng cao hiệu quả công việc mà chỉ để phù hợp với nguồn lực hiện có, đảm bảo các đơn vị và cá nhân có thể hoàn thành công việc, không bị "bắt lỗi" khi đánh giá nội bộ hoặc đánh giá giám sát. Do đó, phần nào việc thực hiện các quy trình này chỉ mang tính hình thức và chưa thật sự mang lại hiệu quả như mong muốn.
Một số quy trình còn chưa thể hiện được tổng thời gian từ khi bắt đầu đến khi kết thúc công việc, mà chỉ đo lường được thời gian cụ thể của từng bước, từng công đoạn trong quy trình. Do đó, khó có thể xác định và quy trách nhiệm cho cán bộ, công chức trong trường hợp thời gian này bị kéo dài. Có một số quy trình tuy được xây dựng dựa trên các quy định pháp luật hiện hành nhưng khi đi vào thực hiện trên thực tế khó có thể đảm bảo được thời gian do quy định này có phần bất hợp lý.
Mục tiêu chất lượng của Bộ chưa xây dựng được theo từng năm và các đơn vị thuộc cơ quan Bộ chưa thiết lập Hệ thống mục tiêu chất lượng của riêng mình. Các biện pháp theo dõi mức độ đạt được của Mục tiêu chất lượng chưa được đề cập trong HTQLCL của cơ quan Bộ.
Trách nhiệm của các đơn vị, cá nhân có liên quan trong việc xây dựng và áp dụng HTQLCL chưa cao
Thủ trưởng các đơn vị thuộc cơ quan Bộ đôi khi không đủ thời gian để xử lý công việc đảm bảo thời hạn, trình tự của các quy trình ISO trong HTQLCL của cơ quan Bộ. Điều này thể hiện ở chỗ, đôi khi văn bản trình ký xử lý chậm hơn so với thời gian quy định do lãnh đạo đơn vị bận đi công tác dài ngày, hoặc có quá nhiều công việc cần xử lý.
Lãnh đạo các đơn vị đôi khi không chú trọng tới việc phổ biến, tuyên truyền và quán triệt các công chức, viên chức cấp dưới tuân thủ nghiêm các quy trình ISO trong HTQLCL; không đánh giá chất lượng công việc thông qua các quy trình, không thực hiện việc thi đua khen thưởng căn cứ vào kết quả thực thi công việc theo quy trình ISO.
Việc tuân thủ các quy định về thông tin báo cáo tình hình và kết quả thực hiện ISO của các đơn vị chưa tốt; các báo cáo hầu hết chỉ đưa ra những nhận định chung chung, kết quả thực hiện mang tính định tính; các đơn vị không chú trọng việc theo dõi và có những ghi chép cụ thể, lưu giữ những bằng chứng cụ thể liên quan tới việc thực hiện các quy trình trong HTQLCL của công chức, viên chức đơn vị mình. Đôi khi, các công việc này chỉ được thực hiện mang tính hình thức, đối phó khi có yêu cầu của Ban Chỉ đạo hoặc Lãnh đạo Bộ.
Thường trực Ban Chỉ đạo không được bố trí công chức chuyên trách thực hiện nhiệm vụ này, hoạt động duy trì và cải tiến Hệ thống chỉ được thực hiện khi có đánh giá nội bộ hoặc đánh giá giám sát, không mang tính thường xuyên, liên tục.
4. Một số kinh nghiệm triển khai ứng dụng có hiệu quả HTQLCL theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001: 2008 trong các cơ quan hành chính nhà nước
Xây dựng, áp dụng, duy trì và cải tiến HTQLCL theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001: 2008 là một yêu cầu bắt buộc và là một chỉ số đánh giá cải cách hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước; từ kinh nghiệm của Bộ Nội vụ cho thấy để thật sự đảm bảo hiệu quả của HTQLCL theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001: 2008, các cơ quan hành chính nhà nước cần lưu ý các nội dung sau:
- Lãnh đạo cao nhất của cơ quan cần nhận thức đúng đắn tầm quan trọng và hiệu quả mang lại cho công tác quản lý khi áp dụng HTQLCL; cần có quyết tâm cao và quyết liệt trong công tác chỉ đạo, điều hành thực thi nhiệm vụ này;
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến để nâng cao hơn nữa trách nhiệm của thủ trưởng các đơn vị thuộc cơ quan, trách nhiệm của công chức, viên chức cơ quan trong tuân thủ các quy trình ISO;
- Trong quá trình triển khai xây dựng các quy trình ISO, cần cân nhắc kỹ để tránh hai xu hướng: (1) xây dựng các quy trình theo hướng quá "chuẩn" về thời gian thực hiện, dẫn tới thực tế triển khai công việc không thể đáp ứng được quy định nêu tại quy trình; (2) xây dựng các quy trình giải quyết công việc theo hướng diễn giải lại những gì đang diễn ra trên thực tế của cơ quan, đơn vị mình để tránh bị "bắt lỗi" trong quá trình đánh giá, dẫn tới không nâng cao được trách nhiệm của cán bộ, công chức trong giải quyết công việc và không phát huy được hết ưu điểm của HTQLCL;
- Cần phân công trách nhiệm phù hợp để đảm bảo HTQLCL được xây dựng và áp dụng mang lại hiệu quả cao nhất; trong đó cần gắn liền công tác xây dựng và áp dụng HTQLCL với công tác kiểm soát thủ tục hành chính thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của cơ quan, đơn vị; gắn liền trách nhiệm kiểm soát thủ tục hành chính với trách nhiệm chủ trì xây dựng, áp dụng HTQLCL theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001: 2008;
- Cần có cơ chế, chính sách phù hợp nhằm nâng cao trách nhiệm và tính chủ động của bộ phận Thường trực Ban Chỉ đạo ISO cũng như các đơn vị, cá nhân trực tiếp thực hiện thủ tục hành chính theo Đề án 30 để đẩy nhanh việc đưa các thủ tục hành chính này vào phạm vi HTQLCL của cơ quan, đơn vị;
- Tiếp tục duy trì và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, đánh giá nội bộ; kiểm soát tốt hơn nữa việc thực hiện các quy trình ISO của các đơn vị; đề xuất kịp thời, chính xác việc khen thưởng, phê bình đối với các đơn vị, cá nhân nhằm động viên, khuyến khích các đơn vị, cá nhân thực hiện tốt và xử lý thích đáng các đơn vị, cá nhân thực hiện chưa tốt;
- Kết nối HTQLCL của các cơ quan, đơn vị có liên quan trong cùng hệ thống thành một Hệ thống thống nhất, hoàn chỉnh và có tính liên thông;
- Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị cần khuyến khích các đơn vị sự nghiệp trực thuộc, nhất là các đơn vị sự nghiệp phục vụ chức năng quản lý nhà nước của Bộ, ngành, địa phương xây dựng và áp dụng HTQLCL để nâng cao hiệu quả thực thi nhiệm vụ được giao;
- Các cơ quan hành chính nhà nước cần tích cực học hỏi kinh nghiệm, giao lưu, trao đổi chuyên môn nghiệp vụ về HTQLCL với các cơ quan, đơn vị có liên quan, nhất là các cơ quan có HTQLCL được đánh giá là hiệu lực, hiệu quả;
- Tăng cường đào tạo, nâng cao kiến thức, kỹ năng xây dựng và áp dụng HTQLCL cho bộ phận thường trực Ban Chỉ đạo ISO của cơ quan, đơn vị và các công chức có liên quan./.
ThS. Nguyễn Thị Trà Lê
Vụ Pháp chế, Bộ Nội vụ