Ngày 09/11/2015, tại Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Trung tâm Thông tin và Thư viện khoa học đã tổ chức buổi sinh hoạt khoa học chuyên đề về “Hệ thống tuyển dụng công chức quốc gia của chính phủ Nhật Bản trong những năm gần đây” do ThS. Mai Anh Duy trình bày. Tham dự buổi sinh hoạt khoa học chuyên đề có TS. Trần Văn Ngợi, Viện trưởng Viện Khoa học tổ chức nhà nước cùng các nghiên cứu viên trong Viện.

Ông Chu Tuấn Tú, Giám đốc Trung tâm Thông tin và Thư viện khoa học giới thiệu nội dung buổi sinh hoạt khoa học chuyên đề
Tổ chức thi tuyển công chức nghiêm túc để tuyển được những người có đức, có tài vào làm việc tại các cơ quan Nhà nước là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ công chức. Trong thời gian vừa qua, Đảng và Nhà nước nói chung và Bộ Nội vụ nói riêng đã có nhiều đoàn công tác đi học tập kinh nghiệm tổ chức thi tuyển công chức ở nước ngoài trong đó có Nhật Bản. Nhật Bản là quốc gia có bề dày kinh nghiệm trong việc tổ chức kỳ thi tuyển dụng công chức cấp quốc gia. Kỳ thi tuyển dụng công chức cấp quốc gia của Nhật Bản được tổ chức rất nghiêm túc mang lại sự công bằng, công minh và qua đó đã tuyển chọn được những người thực sự có đức, có tài, cống hiến hết mình cho đất nước.
ThS. Mai Anh Duy trình bày nội dung chuyên đề
Buổi sinh hoạt khoa học chuyên đề tập trung giới thiệu và làm rõ một số nội dung chính về: Hệ thống chính quyền trung ương Nhật Bản; Cấu trúc cơ quan Bộ của chính phủ Nhật Bản; Tổng quan hệ thống tuyển dụng công chức quốc gia Nhật Bản; Hệ thống tuyển dụng công chức quốc gia Nhật Bản từ năm 1985 đến năm 2011 và từ năm 2012 cho đến nay; So sánh tổng quan hệ thống tuyển dụng công chức quốc gia Nhật Bản với hệ thống tuyển dụng công chức của Việt Nam; Đề xuất chính sách ngắn hạn, trung hạn và dài hạn áp dụng trong mô hình thi tuyển công chức tại Việt Nam.
Về hệ thống chính quyền Nhật Bản: Tại Nhật Bản có 47 tỉnh, thành phố (46 tỉnh, thành phố và thủ đô Tokyo). Các tỉnh và thành phố hoạt động theo nguyên tắc chính quyền địa phương tự quản đứng đầu mỗi tỉnh là một tỉnh trưởng dưới tỉnh thì có các đơn vị hành chính như thành phố, quận, phường, thôn. Riêng với thủ đô Tokyo có những quy định hành chính khác biệt so với các tỉnh, thành phố, có 23 đặc khu (tương đương quận). Mô hình quận làm việc độc lập như tự ban hành những chính sách mà chính quyền Tokyo không được phép can thiệp. Chính quyền trung ương Nhật Bản là mô hình tam quyền phân lập với các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp. Cơ quan lập pháp là quốc hội của Nhật Bản gồm 2 viện: Thượng viện và Hạ viện. Nhiệm kỳ của Thượng viện là 6 năm và nhiệm kỳ của Hạ viện là 4 năm. Cơ quan hành pháp là Nội các và các cơ quan Bộ đứng đầu là Thủ tướng. Thủ tướng của Nhật Bản là người đứng đầu của Đảng cầm quyền. Bên dưới Nội các gồm Văn phòng Nội các, Cơ quan Nhân sự quốc gia và các Bộ. Đứng đầu mỗi Bộ là Bộ trưởng được bổ nhiệm bởi Thủ tướng. Mỗi bộ thường có từ 2 đến 3 thứ trưởng nhưng trong đó chỉ có một thứ trưởng điều hành. Hầu hết công việc của các Bộ đều do thứ trưởng điều hành đảm trách. Thứ trưởng điều hành là một công chức quốc gia được bổ nhiệm bắt đầu từ vị trí thấp nhất là chuyên viên qua thời gian làm việc, phấn đấu hết sức mình và không ngừng học tập trau dồi, tích lũy kinh nghiệm để được bổ nhiệm lần lượt qua các chức vụ: Trưởng nhóm; Phó phòng; Trưởng phòng; Phó Vụ trưởng (Phó Cục trưởng); Vụ trưởng (Cục trưởng). Cấu trúc tổ chức các Bộ của Nhật Bản tương đối giống như cấu trúc tổ chức tại các Bộ của Việt Nam. Phòng làm việc tại các Bộ của Nhật Bản luôn được bố trí rộng rãi để trong phòng có cả trưởng nhóm và các chuyên viên làm việc cùng nhau, dễ dàng trao đổi công việc ngay khi cần điều này sẽ nâng cao được kết quả công việc. Nhật Bản rất coi trọng khả năng làm việc theo nhóm. Trưởng nhóm là người sẽ theo dõi, giám sát và đưa ra nhận xét các chuyên viên trong quá trình làm việc.
Quang cảnh buổi sinh hoạt khoa học
Một số đặc trưng nội trổi của hệ thống công vụ Nhật Bản là số lượng công chức được bổ nhiệm từ chính trị gia rất ít; Một số lượng lớn công chức được tuyển dụng khi vừa tốt nghiệp đại học hoặc phổ thông; Có sự luân chuyển/sắp xếp nhân sự thường xuyên và có thông lệ là đã thi đỗ vào hệ thống công vụ thì rất khó để cho nghỉ việc. Chính vì các đặc trưng nêu trên mà Nhật Bản phải tổ chức kỳ thi tuyển công chức quốc gia rất chặt chẽ, nghiêm túc để tuyển chọn được những công chức có đức, có tài phục vụ cho đất nước.
Để đảm bảo cho kỳ thi tuyển công chức quốc gia Nhật Bản thật sự nghiêm túc chính phủ Nhật Bản đã thành lập ra một bộ phận chịu trách nhiệm về tất cả các vấn đề liên quan đến thi tuyển công chức của Nhật Bản, đó là Cơ quan Nhân sự quốc gia (CQNSQG). CQNSQG thuộc chính phủ nhưng rất độc lập. Quyền hạn của CQNSQG là cơ quan xây dựng luật để tổ chức các kỳ thi tuyển công chức, là đơn vị đại diện để tiếp nhận công chức sau khi thi đỗ kỳ thi công chức quốc gia, là đơn vị kiểm tra, giám sát quy trình tổ chức thi tuyển công chức của các Bộ, ngành. Ở Nhật Bản, công chức được phân thành 2 loại: công chức quốc gia và công chức địa phương. Kỳ thi tuyển dụng công chức quốc gia là do CQNSQG tổ chức thi. Kỳ thi tuyển dụng công chức địa phương do các địa phương tự tổ chức thi. Công chức quốc gia là công chức làm việc từ cấp Bộ trở lên còn công chức địa phương là công chức làm việc tại các địa phương. Hàng năm, Nhật Bản tổ chức kỳ thi tuyển công chức quốc gia cho 4 nhóm: công chức toàn diện, công chức thông thường, chuyên gia và người đã có kinh nghiệm.
Để trở thành công chức quốc gia Nhật Bản, thí sinh phải vượt qua 2 vòng thi: vòng thi 1 do CQNSQG tổ chức, vòng thi 2 do các Bộ tự tổ chức. Tại vòng thi 1 thí sinh làm bài thi môn thi viết (gồm có bài thi trắc nghiệm, bài viết luận) và phỏng vấn. Thí sinh vượt qua vòng thi 1 thì mới được dự thi vòng 2. Tại vòng 2, thí sinh chỉ tham dự kỳ thi phỏng vấn. Thang điểm của các bài thi là thang điểm 100. Từ năm 2015 trở đi, với những thí sinh dự thi vào vị trí công chức toàn diện mà có điểm Tiếng Anh TOEFL iBT từ 65 – 80, TOEIC từ 600 – 730, IELTS từ 5.5 – 6.5 thì được cộng thêm 15 điểm còn với TOEFL iBT từ 80 trở lên, TOEIC từ 730 trở lên, IELTS từ 6.5 trở lên và Eiken cấp độ I trở lên được cộng thêm 25 điểm vào điểm thi vòng 1. Vị trí công chức toàn diện sẽ là hạt giống cho các vị trí lãnh đạo Bộ trong tương lai. Thời gian tổ chức kỳ thi công chức quốc gia hàng năm của Nhật Bản được diễn ra theo một quy trình rõ ràng, tường minh. Với nhóm thí sinh dự thi công chức toàn diện, kết quả thi được bảo lưu trong 3 năm. Nhóm thí sinh dự thi công chức thông thường, kết quả thi chỉ được bảo lưu trong 1 năm.
Nhật Bản cho rằng để đo lường năng lực của con người ngoài các tiêu chí về trí tuệ, kiến thức cần phải đánh giá các khả năng khác như: khả năng lên kế hoạch, khả năng thuyết minh, khả năng tư duy, khả năng lý giải, tính tích cực, tính xã hội, khả năng thích ứng, năng lực viết luận.
Sự khác biệt giữa hệ thống thi tuyển công chức của Nhật Bản với hệ thống thi tuyển công chức của Việt Nam cho thấy: Việt Nam tổ chức tuyển dụng khi có nhu cầu, không có tuyển dụng chung cho cả nước còn Nhật Bản, việc tuyển dụng công chức được tổ chức hàng năm vào thời gian nhất định. Đối với hình thức phỏng vấn (vấn đáp): ở Việt Nam, phỏng vấn được tổ chức như là một bài thi trong môn thi ngoại ngữ (Khoản, Điều 8, Nghị định số 24/2010/NĐ-CP) còn ở Nhật Bản, bài thi phỏng vấn được tổ chức ở vòng 2 của kỳ thi chung do CQNSQG tổ chức; Việt Nam: dạng phỏng vấn khác được áp dụng đối với những trường hợp xét tuyển còn Nhật Bản: bài thi phỏng vấn vào các Bộ được tổ chức riêng biệt bởi chính các Bộ và chỉ dành cho các thí sinh đã vượt qua kỳ thi chung do CQNSQG tổ chức.
Các nghiên cứu viên thảo luận, trao đổi nội dung chuyên đề
Chuyên đề cũng đề xuất một số chính sách để áp dụng vào mô hình tuyển dụng công chức của Việt Nam như: chính sách ngắn hạn – Áp dụng CNTT trong tuyển dụng (xây dựng một cổng thông tin điện tử chuyên biệt, triển khai thi tuyển trên máy tính), bài thi phỏng vấn nên được áp dụng rộng rãi và cũng phải được tính vào tổng điểm thi tuyển; Chính sách trung hạn – Tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong tuyển dụng, nâng tầm trong giai đoạn mới, các chính sách tuyển dụng gắn liền với vị trí việc làm cần tuyển, áp dụng phương pháp thi phỏng vấn áp dụng cho cả thi tuyển và xét tuyển, mở rộng và bổ sung chính sách tuyển dụng với người có kinh nghiệm nhằm thu hút nhân tài vào làm việc cho cơ quan nhà nước; Chính sách dài hạn - Dần chuyển đổi từ hệ thống tuyển dụng phi tập trung sang tập trung hơn (học tập theo mô hình tuyển dụng công chức quốc gia của chính phủ Nhật Bản).
Sau khi kết thúc phần trình bày nội dung chuyên đề, các nghiên cứu viên đã đặt ra rất nhiều câu hỏi để tìm hiểu sâu hơn về: Sự khác biệt giữa độ tuổi nghỉ hưu của nữ công chức và nam công chức Nhật Bản; Chế độ phúc lợi của công chức trong bộ máy nhà nước; Trong quá trình bổ nhiệm, công chức Nhật Bản có được bổ nhiệm vượt cấp không hay phải theo thứ tự cấp bậc; Mối quan hệ giữa CQNSQG Nhật Bản và các Bộ của Nhật Bản; …
TS. Trần Văn Ngợi, Viện trưởng Viện Khoa học tổ chức nhà nước phát biểu tại buổi sinh hoạt chuyên đề khoa học
Kết thúc buổi sinh hoạt khoa học chuyên đề, TS. Trần Văn Ngợi, Viện trưởng Viện KHTCNN đã đánh giá cao kết quả sinh hoạt khoa học của Trung tâm Thông tin và Thư viện khoa học và để giúp nâng cao khả năng ngoại ngữ trong Viện, ông Ngợi đề nghị trình bày lại nội dung chuyên đề bằng Tiếng Anh tại Câu lạc bộ Tiếng Anh của Viện. Ông Ngợi nhấn mạnh nội dung của chuyên đề khoa học này sẽ là tiền đề cho việc tiếp tục nghiên cứu để hiểu thấu đáo hơn, rõ hơn và đây cũng chính là nội dung gợi mở để bắt nguồn cho những nghiên cứu tiếp theo (như nghiên cứu về hệ thống chính quyền Nhật Bản; Mối quan hệ giữa tỉnh, thành phố, quận và thôn của Nhật Bản; Phương pháp nhập, tách các bộ, ngành để hình thành các bộ, ngành đa lĩnh vực; Sự khác biệt giữa thứ trưởng điều hành và thứ trưởng thông thường ở Nhật Bản; Cách tổ chức các nhóm để làm việc cùng nhau (mối quan hệ giữa trưởng nhóm và các thành viên trong nhóm); Cách tổ chức nhân sự trong công sở; Mô hình đào tạo, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Viện Nghiên cứu Hành chính quốc gia Nhật Bản. Để tiếp tục tổ chức các hoạt động sinh hoạt khoa học chuyên đề tại Viện trong thời gian tới, ông Ngợi yêu cầu tất cả các chuyên viên, nghiên cứu viên đặc biệt là các đoàn viên và các nghiên cứu viên trẻ trong Viện sau khi đi học tập ở trong nước cũng như ở nước ngoài cần có những chuyên đề trình bày để chia sẻ thông tin, kiến thức và kinh nghiệm./.
Phạm Trang