Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (hay còn gọi là nước Mỹ) là một nước cộng hòa lập hiến liên bang, gồm có 50 bang và một đặc khu liên bang, có diện tích 9,83 triệu km² và 305 triệu dân, là quốc gia đứng hàng thứ 4 về tổng diện tích và đứng thứ 3 về dân số trên thế giới. Mỹ là một trong những quốc gia đa dạng chủng tộc nhất trên thế giới.

Trong hệ thống liên bang của Mỹ có ba cấp chính quyền, đó là liên bang, bang và địa phương.

Hiến pháp Mỹ xác định cấu trúc và quyền lực của Chính quyền Liên bang và các điều khoản chung đối với các chính quyền bang. Về phần mình, mỗi bang đều có hiến pháp riêng, bao gồm các điều khoản quy định đối với các chính quyền địa phương trong bang đó. Các chính quyền địa phương có thể bao gồm các thành phố, các hạt, các thị trấn, các khu vực trường học và các đặc khu quản lý tài nguyên thiên nhiên tại địa phương hoặc các hệ thống giao thông vận tải.

Kinh tế, xã hội ở Mỹ được quản lý, điều hành không chỉ bởi một cấp chính quyền mà bởi các cấp chính quyền khác nhau ở những mức độ, phạm vi khác nhau. Quyền hạn của chính quyền Liên bang do Hiến pháp Liên bang qui định và chủ yếu tập trung ở các lĩnh vực có ảnh hưởng đến toàn liên bang như ngoại giao, quốc phòng và an ninh, quản lý xuất nhập khẩu, quản lý di dân, bảo hộ sở hữu trí tuệ, và một số lĩnh vực khác.

Trong một số lĩnh vực, cả chính quyền liên bang và chính quyền bang đều cùng chia sẻ trách nhiệm nhưng ở mức độ không giống nhau, cụ thể là Chính quyền Liên bang thiết lập ra một số luật nhất định và một số chương trình do liên bang cấp kinh phí và giao cho các bang trực tiếp quản lý. Những lĩnh vực then chốt chịu sự quản lý của các bang, sử dụng kinh phí của liên bang và phải tuân theo các quy định của liên bang bao gồm: giáo dục, phúc lợi xã hội, trợ giúp về nhà ở và lương thực thực phẩm, an ninh nội địa, vận tải, đáp ứng khẩn cấp.

Mối liên quan như trên tạo cho Chính quyền Liên bang quyền ảnh hưởng đến các bang. Nếu các bang không đảm bảo tuân thủ các điều kiện mà liên bang yêu cầu thì Chính quyền Liên bang có thể cảnh báo giữ lại kinh phí của các chương trình, dự án do liên bang tài trợ. Trong nhiều trường hợp, các bang cũng cấp một phần kinh phí cho các chương trình để các chương trình đó đủ điều kiện nhận kinh phí của liên bang.

Chính quyền các bang không phải là những cơ cấu cấp dưới của Chính quyền Liên bang. Mỗi bang đều có chủ quyền và tổ chức chính quyền riêng theo Hiến pháp bang. Chính quyền các bang chịu trách nhiệm chính trong việc cung cấp nhiều dịch vụ quan trọng ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của người dân trong bang, như: thiết lập các tiêu chuẩn giáo dục và đề ra những cách thức cấp kinh phí cho giáo dục công cộng; xây dựng và bảo dưỡng hệ thống giao thông; cấp giấy phép và điều chỉnh các hoạt động kinh doanh và nghề nghiệp; lập ra và giám sát các tòa án không thuộc liên bang và hệ thống xét xử hình sự; đảm bảo chung cho an ninh công cộng; quản lý các chương trình y tế, nhà ở và dinh dưỡng với nguồn kinh phí công cộng cho những người thu nhập thấp và những người tàn tật; chỉ huy Lực lượng Phòng vệ quốc gia của bang, trừ khi họ được triệu tập để phục vụ cho quốc gia....

Một số trong những nghĩa vụ, quyền hạn của chính quyền bang được ủy thác cho các chính quyền địa phương hoặc chia sẻ với các chính quyền địa phương ở nhiều bang. Quyền hạn của chính quyền địa phương được quy định trong hiến pháp của bang đó. Cũng như các chính sách do các chính quyền bang ban hành không được mâu thuẫn với luật liên bang, chính quyền địa phương cũng phải tuân theo các quy định của Hiến pháp và luật pháp của bang. Các chính quyền địa phương chịu trách nhiệm giải quyết những nhu cầu mang tính địa phương hạn hẹp như lát đường và chiếu sáng đường phố; đảm bảo cung cấp nước; cung cấp lực lượng cảnh sát và phương tiện phòng cháy chữa cháy; thiết lập các quy chế y tế địa phương; thu thuế địa phương để hỗ trợ các hoạt động của chính quyền; hợp tác với bang trong việc trực tiếp quản lý hệ thống trường học địa phương....

Một số chính quyền địa phương còn chia sẻ trách nhiệm với bang để cung cấp những lợi ích xã hội cho các cư dân có thu nhập thấp, giám sát và thi hành các quy định về môi trường và xây dựng các bộ luật, theo dõi phúc lợi của trẻ em... và  hợp tác với các tổ chức của bang và liên bang để đáp ứng được nhu cầu của cư dân.

Quan đó cho thấy trong quản lý, điều hành các vấn đề kinh tế - xã hội ở Mỹ vừa có sự phân định vai trò nhiệm vụ khá rõ ràng giữa các cấp chính quyền vừa có hợp tác, phối hợp giữa các cấp chính quyền.

I . Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước Mỹ trong việc quản lý dịch vụ y tế và giáo dục

1- Vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực y tế

Mỹ là một trong hai nước trong khối OECD không có hệ thống bảo hiểm y tế toàn dân. Tuy nhiên, Nhà nước vẫn giữ vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp các dịch vụ y tế, thể hiện trên hai khía cạnh: Nhà nước thiết lập khuôn khổ pháp lý trong lĩnh vực y tế và tài trợ chăm sóc y tế của một số đối tượng nhất định. Vai trò của Nhà nước trong việc trực tiếp cung cấp dịch vụ y tế cho người dân rất nhỏ, chủ yếu để cho tư nhân cung cấp và vận hành theo thị trường. Đa số các bệnh viện ở Mỹ thuộc khu vực tư nhân, số bệnh viện công chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Ví dụ: Bệnh viện Quân đội do Bộ Quốc phòng vận hành nhằm cung cấp dịch vụ y tế cho các quân nhân; hoặc Chính phủ cũng sở hữu và vận hành bệnh viện để chữa bệnh cho những người dân thổ địa ở Mỹ. Khoảng 70% số bệnh viện ở Mỹ là bệnh viện tư nhân hoạt động dưới hình thức tổ chức không vì lợi nhuận, số còn lại là các bệnh viện tư nhân vì lợi nhuận và bệnh viện công, chủ yếu do chính quyền địa phương sở hữu và vận hành.

 

Hướng tới bảo hiểm y tế cho mọi người

Chính phủ tài trợ một số dịch vụ y tế cơ bản như: chữa bệnh cho những người chỉ sống được dưới sáu tháng; các chương trình kế hoạch hóa gia đình. Nhà nước cũng chịu trách nhiệm đảm bảo chất lượng dịch vụ y tế. Ví dụ: Nhà nước có thể kiểm soát và nâng cao dịch vụ y tế thông qua một trong những sáng kiến đó là báo cáo của cộng đồng về hiệu quả hoạt động của các bệnh viện, nhân viên y tế và các tổ chức chăm sóc sức khỏe khác.

Nhà nước đảm bảo việc người dân được chăm sóc sức khỏe thông qua các chương trình được ngân sách liên bang tài trợ, nhằm vào một số đối tượng nhất định như người già, người tàn tật, gia đình quân nhân và cựu chiến binh, trẻ em và người nghèo, những trường hợp cấp cứu khẩn cấp.

Hiện nay, các chương trình của Chính phủ tài trợ cho dịch vụ y tế cho khoảng 28% dân số, bao gồm các đối tượng là người già, người tàn tật, trẻ em, cựu chiến binh, một số đối tượng người nghèo và dịch vụ khám chữa bệnh khẩn cấp. Tổng số ngân sách chi cho y tế của Chính phủ chiếm khoảng từ 45% đến 56% chi cho y tế ở Mỹ. Mỹ là một trong những nước có tỉ lệ chi cho y tế bình quân trên một người lớn nhất.

Các chương trình tài trợ y tế của Mỹ tài trợ tất cả các khoản chi phí phát sinh liên quan đến dịch vụ y tế cho các đối tượng thuộc diện được tài trợ. Hai chương trình lớn nhất của Mỹ tài trợ cho dịch vụ y tế bao gồm:

• Chương trình chăm sóc sức khỏe người cao tuổi (Medicare): Chương trình này tài trợ cho việc chăm sóc sức khỏe của người già từ 65 tuổi trở lên và người tàn tật. Đây là chương trình tài trợ bởi ngân sách liên bang, từ nguồn thuế y tế và đóng góp của người dân. Chương trình tài trợ tất các chi phí y tế từ khám bác sĩ, bệnh viện và thuốc điều trị. Chương trình này tiêu tốn một khoản ngân sách lớn của Chính phủ Mỹ, ước tính khoảng 500 tỷ đô la/năm.

• Chương trình chăm sóc sức khỏe người nghèo (Medicaid): Chương trình này tài trợ cho một số đối tượng có thu nhập thấp như trẻ em thuộc gia đình có thu nhập thấp, phụ nữ mang thai và người tàn tật. Chương trình này được tài trợ bằng ngân sách liên bang và ngân sách của các bang, mỗi bên đóng góp 50%. Trẻ em thuộc các hộ có thu nhập khoảng 40.000 đô la /năm cho hộ gia đình 4 người sẽ được tài trợ bởi chương trình này. 

Ngoài ra, Chính phủ còn tài trợ các chương trình y tế khác như Chương trình chăm sóc sức khỏe cho trẻ em không được tài trợ bởi chương trinh Medicaid, chương trình khám chữa bệnh cho quân nhân, cựu chiến binh, kế hoạch hóa gia đình,...

Những người không thuộc đối tượng hỗ trợ bởi các chương trình trên sẽ tự mua hoặc được người tuyển dụng lao động mua bảo hiểm y tế. Chính phủ Mỹ khuyến khích doanh nghiệp mua bảo hiểm cho người lao động bằng cách miễn thuế cho khoản đóng bảo hiểm. Do đó, đa số người sử dụng lao động ở Mỹ chi trả bảo hiểm y tế cho người lao động. Những người thất nghiệp sẽ phải tự mua bảo hiểm.

Tính chung trên cả nước, theo số liệu của Cục thống kê Mỹ trong cuộc điều tra dân số của Chính phủ Mỹ năm 2012, 54,9% người Mỹ có bảo hiểm y tế thông qua việc làm, 32,6% được nhận bảo hiểm thông qua chương trình viện trợ và chăm sóc y tế của Chính phủ, 15,4% không có bảo hiểm y tế và số còn lại tự mua bảo hiểm y tế, 15,4% không có bảo hiểm y tế và số còn lại có bảo hiểm y tế do tự mua. Nhiều người dân không có khả năng tài chính để tự mua bảo hiểm y tế cho mình và đây là vấn đề được tranh cãi nhiều ở Mỹ trong những năm gần đây.

Phí cho dịch vụ khám chữa bệnh thường là kết quả đàm phán giữa bệnh viện và các chương trình, công ty bảo hiểm. Một số phí cho chương trình bảo hiểm do Nhà nước tài trợ được quy định trong luật. Có những chương trình bảo hiểm của Nhà nước, mức phí quá thấp, không đủ chi phí dịch vụ do đó bệnh viện có quyền từ chối cung cấp dịch vụ, kể cả bệnh nhân thuộc diện tài trợ bởi Chương trình Khám chữa bệnh cho người cao tuổi (Medicare) và Chương trình Khám chữa bệnh cho người nghèo (Medicaid).

Hiện nay, đối tượng được Nhà nước tài trợ bảo hiểm y tế tăng dần, phụ thuộc vào ngân sách của Nhà nước, theo hướng đảm bảo toàn dân được tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản.

Chính quyền của Tổng thống Obama đang có kế hoạch giảm tỷ lệ phần trăm số người dân không có bảo hiểm y tế thông qua mở rộng diện tài trợ của các chương trình nói trên thể hiện trong Đạo luật bảo vệ người bệnh và đáp ứng khả năng chi trả cho y tế hay còn gọi Đạo luật mới về bảo hiểm y tế mang tên “Obamacare" được thông qua năm 2010 bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/2014.

Theo đó, cấm các công ty bảo hiểm kể từ ngày 01/01/2014 được ấn định nhiều mức phí khác nhau theo tiền sử bệnh, cấm từ chối nhận bảo hiểm đối với những bệnh nhân mà chi phí điều trị quá tốn kém hay quy định mức trần thanh toán hằng năm. Đổi lại, luật bắt buộc tất cả những người định cư tại Mỹ, dù là công dân Mỹ hay người ngoại quốc, đều phải mua bảo hiểm; nếu không sẽ bị phạt 95 USD và đến năm 2016, tiền phạt sẽ tăng lên 695 USD.

Một điểm mới nữa của cải cách là đã xác định những chi phí mà công ty bảo hiểm mặc nhiên phải thanh toán. Từ nay, tất cả các gói bảo hiểm đều gồm cả phí điều trị tại bệnh viện, nhất là cấp cứu và các điều trị dự phòng như xét nghiệm tiểu đường, ung thư, tiêm chủng hoặc ngừa thai đều phải được thanh toán toàn bộ.

Tuy nhiên, mức thâm hụt ngân sách và gánh nặng tài chính lớn đối với ngân sách nhà nước gây cản trở không nhỏ đối với chính quyền trong việc triển khai thực hiện kế hoạch trên. 

Hiện đã có một vài bang đã thực hiện định hướng trên. Năm 2011, bang Vermont là bang đầu tiên thông qua hệ thống chăm sóc y tế toàn dân (Đạo luật 48). Đạo luật này coi việc chăm sóc sức khỏe là quyền con người và Nhà nước có trách nhiệm đảm bảo hệ thống chăm sóc sức khỏe y tế đáp ứng tốt nhất nhu cầu cuả người dân. Hiện Vermont đang triển khai thực hiện đạo luật mới này.

2- Vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực giáo dục

Mỹ là nước có nền giáo dục phát triển mạnh mẽ và mang tính thực tiễn cao, với một hệ thống các trường đại học tốt nhất thế giới và chính sách "trải thảm đỏ" mời gọi sinh viên nước ngoài tới học tại Mỹ dẫn tới Mỹ là nước có số du học sinh nước ngoài tại Mỹ lớn nhất thế giới. Là một quốc gia có nền giáo dục hàng đầu, Mỹ đã và đang đào tạo nên một nguồn nhân lực dồi dào, chất lượng cao, được nhiều tập đoàn lớn trên thế giới tin tưởng tuyển dụng.

Đặc điểm nổi bật nhất trong hệ thống giáo dục của Mỹ là sự phân quyền. Hiến pháp Mỹ không quy định trách nhiệm của giáo dục của Chính quyền Liên bang nên tất cả các vấn đề giáo dục đều thuộc về từng bang. Khác với hầu hết các nước khác, Mỹ không có hệ thống quản lý giáo dục quốc gia – trừ một số ngoại lệ như các học viện quân sự và các trường học dành cho người Mỹ bản địa. Chính phủ liên bang cũng không duyệt và điều hành chương trình học quốc gia. Bộ giáo dục của Liên bang chỉ có các chức năng: thu thập thông tin, cố vấn và giúp đỡ tài chính cho các chương trình giáo dục nhất định. Các trường học ở chủ yếu thuộc trách nhiệm của các bang và địa phương. Hiến pháp từng bang cho phép các cộng đồng địa phương kiểm soát thực sự về mặt hành chính đối với các trường công.

Hội đồng giáo dục của bang cùng với giám đốc Sở giáo dục của bang, giám sát giáo dục tại địa phương, đề ra các tiêu chuẩn với học sinh và giáo viên, thông qua chương trình học và thường xuyên rà soát việc lựa chọn sách giáo khoa. Tuy nhiên, quyền hạn chủ yếu của các bang ngày càng thể hiện rõ ở góc độ tài chính: hầu hết các bang đều hỗ trợ đáng kể cho các trường để bổ sung nguồn thu từ thuế của địa phương.

Nền giáo dục công chiếm tỷ lệ chi lớn nhất ở tất cả các thành phố và các hạt ở Mỹ, với tổng số ngân sách được phân bổ từ nguồn thuế tài sản tại địa phương. Các hội đồng quản trị giáo dục địa phương – chủ yếu là được bầu lên – quản lý khoảng 15.500 học khu khắp cả nước. Những hội đồng này xây dựng ngân sách, đề ra chính sách và thuê những người quản trị để điều hành các trường học. Các khu vực trường học không nhất thiết phải trùng với các ranh giới chính trị khác, mặc dầu chúng thường phục vụ một thành phố hoặc một tỉnh riêng. Ở Mỹ không có sự thống nhất chương trình giảng dạy cho từng tỉnh như ở nước láng giềng Canađa, mỗi Hội đồng quản trị giáo dục ở từng khu vực (thường là quận) của Mỹ quyết định hoạt động của các trường trong địa bàn, kể cả chương trình dạy học dưới khuôn khổ quy định chung của bang. Các Hội đồng quản trị giáo dục do người dân địa phương bầu ra và hoạt động độc lập với chính quyền địa phương. Những tiêu chuẩn và quy định khung về thi cử do chính quyền bang quyết định.

Ở hầu hết các bang, giáo dục công cộng được tài trợ bởi các loại thuế được định giá trên tài sản của cá nhân và của doanh nghiệp, và các chính quyền bang có thể cung cấp thêm vốn lấy từ những thu nhập chung của bang hoặc những thu nhập từ bán xổ số của bang. Các chính quyền bang chịu trách nhiệm đề ra các tiêu chuẩn về giáo dục và các chính sách chung trong phạm vi bang.

Tương tự như nước láng giềng Canađa, Nhà nước Mỹ đóng vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo cung cấp dịch vụ giáo dục phổ thông cho công dân Mỹ. Hệ thống giáo dục phổ thông chủ yếu được cung cấp bởi Nhà nước ở cả ba cấp liên bang, bang và địa phương.

Hệ thống giáo dục phổ thông hoàn toàn miễn phí cho mọi công dân đến tuổi đi học. Tuổi học bắt buộc khác nhau giữa các bang, dao động từ 5 hoặc 8 tuổi đến 14 đến 18 tuổi. Chương trình học bắt buộc có thể được cung cấp bởi các trường công, trường tư nhân được Nhà nước công nhận và chương trình dạy ở nhà được Nhà nước chấp nhận. Hệ thống phổ thông bao gồm 12 lớp và được chia làm 3 cấp: cấp tiểu học, cấp phổ thông cơ sở và cấp phổ thông trung học.

Ở Mỹ, trường tư nhân được hiểu là trường do tư nhân tài trợ và vận hành. Trường công do Chính phủ tài trợ và vận hành. Ngoài ra, hình thức trường công tự chủ (charter school), tương đối độc lập với chính quyền khá phổ biến ở Mỹ. Trường tư ở Mỹ không bị quản lý bởi các cơ quan Nhà nước nhưng thông thường chất lượng dịch vụ giáo dục ở các trường này đều được duy trì ở mức bằng hoặc tốt hơn hệ thống trường công.

Ban đầu, việc hình thành các trường học tư nhân ở Mỹ là vấn đề được tranh cãi, đặc biệt trong bối cảnh giáo dục là bắt buộc và được cung cấp bởi Nhà nước. Tuy nhiên, sự hình thành và phát triển của trường tư nhân ở Mỹ là kết quả của hệ tư tưởng tự do lựa chọn trong giáo dục miễn là đáp ứng được những tiêu chuẩn nhất định do Nhà nước đặt ra. Trường tư ở Mỹ thường có học phí cao nhưng đổi lại chất lượng cũng rất cao.

Học sinh học trong cả trường công hay trường tư sau hệ phổ thông ở Mỹ đều phải đóng học phí. Chính vì vậy mà tỷ trọng chi cho giáo dục của Nhà nước chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều so với chi của khu vực tư nhân cho loại hình giáo dục này (72% năm 2009) (xem Bảng 1). Tuy nhiên, học phí ở trường công thấp hơn đáng kể so với trường tư, trong đó cũng có nhiều trường tư có chất lượng giảng dạy khá tốt. Một số trường tư có chất lượng đặc biệt tốt và học phí cũng rất cao.

Nền giáo dục ở Mỹ đề ra các mục tiêu rất cụ thể, về cơ bản người Mỹ luôn hướng tới cơ hội giáo dục bình đẳng, không phân biệt tầng lớp xã hội, nguồn gốc dân tộc, chủng tộc hay sắc tộc nào. Trong chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo, Mỹ rất chú trọng đến công tác kiểm định chất lượng giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học và sau đại học. Hệ thống giáo dục của Mỹ được đánh giá là có chất lượng kiểm định rất cao.

 Tỷ trọng chi cho giáo dục tại Mỹ

Năm

 

2000

(%)

 

2009

(%)

Chi cho giáo dục của Nhà nước/Tổng chi cho GD

67,3

72

Chi cho giáo dục của tư nhân/Tổng chi cho GD

32,7

28

Chi cho giáo dục ĐH của Nhà nước/Tổng chi cho GD ĐH

31,1

38,1

Chi cho giáo dục ĐH của tư nhân/Tổng chi cho GD ĐH

68,9

61,9

 Ở Mỹ, các cơ sở giáo dục được thành lập không có nghĩa là đạt kiểm định. Việc được cấp phép hoạt động có nghĩa là các trường đáp ứng đủ các yêu cầu về thành lập trường theo quy định của từng bang đối với các tiêu chí như cơ sở vật chất, tiền ký quỹ, thuế... Còn việc kiểm định lại liên quan đến chất lượng các chương trình đào tạo. Mỹ có 2 cơ quan công nhận các tổ chức kiểm định là Bộ Giáo dục liên bang (USDE)  và CHEA (là cơ quan độc lập được các trường và các tổ chức kiểm định thừa nhận. Như vậy, hai cơ quan trên không trực tiếp kiểm định các trường, mà các trường được trực tiếp kiểm định thông qua các tổ chức kiểm định. Việc các trường được kiểm định có nghĩa là chất lượng giáo dục của trường được đảm bảo, trường có thể tiếp cận với ngân sách chính phủ (hỗ trợ tài chính và dự án nghiên cứu).

II- Một số nhận xét và bài học kinh nghiệm cho quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế và giáo dục tại Việt Nam

Nhà nước Mỹ giữ vai trò quan trọng trong lĩnh vực xã hội, đặc biệt trong việc tài trợ dịch vụ y tế và giáo dục phổ thông, vai trò này có sự thay đổi cùng với quá trình phát triển của đất nước. Mỹ có xu hướng hạn chế tối đa vai trò cung cấp trực tiếp dịch vụ của Nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực y tế, cùng với đó là phát huy tối đa vai trò của tư nhân. Nhà nước chỉ tập trung vào hai nhiệm vụ cơ bản là thiết lập khuôn khổ pháp lý cho sự vận hành của hệ thống y tế và giáo dục và tài trợ cho các dịch vụ y tế nhất định và giáo dục phổ thông.  

Việc điều hành hoạt động của các bệnh viện và trường học thường được thực hiện qua các Ban quản lý, sự can thiệp trực tiếp của các cơ quan hành chính nhà nước thường rất hạn chế. Vai trò của các tổ chức hiệp hội được phát huy nhằm đảm bảo chất lượng cung cấp dịch vụ của các bệnh viện, trường học. Trong lĩnh vực giáo dục, Nhà nước đảm bảo tài trợ miễn phí cho bậc phổ thông trong khi bậc sau phổ thông người học sẽ đóng phí. Công tác kiểm định chất lượng giáo dục ở Mỹ rất được chú trọng.

Các tổ chức thuộc hệ thống y tế và giáo dục tồn tại ba hình thức tổ chức của nhà nước, tổ chức tư nhân không vì lợi nhuận, tổ chức tư nhân vì lợi nhuận. Tuy nhiên, tổ chức hoạt động dưới hình thức không vì lợi nhuận chiếm đa số.

Mỹ đã tạo ra được một bộ máy tách bạch cơ quan quản lý với cung cấp dịch vụ, giảm tải gánh nặng chi phí hành chính, đẩy khối dịch vụ đi theo nhu cầu của người dân, tạo sự cạnh tranh trong cung cấp chất lượng dịch vụ

Qua nghiên cứu vai trò, trách nhiệm của Nhà nước Mỹ trong việc cung cấp dịch vụ y tế, giáo dục, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm trong quản lý lĩnh vực y tế, giáo dục như sau:

- Nhà nước tập trung vào vai trò hình thành khuôn khổ pháp lý để hệ thống y tế và giáo dục vận hành và hạn chế việc trực tiếp tham gia cung cấp dịch vụ. Điều này đảm bảo huy động vai trò của các cá nhân, tổ chức xã hội, các tổ chức nghề nghiệp, xã hội cùng tham gia cung cấp và nâng cao chất lượng dịch vụ của lĩnh vực y tế, giáo dục, giảm gánh nặng cho các cơ quan Nhà nước, đảm bảo hiệu quả hoạt động của các tổ chức, đáp ứng nhu cầu của người dân.

- Song song với vai trò tài trợ trong dịch vụ y tế và giáo dục Nhà nước chú trọng đến việc kiểm định chất lượng, tăng cường công tác thanh tra và kiểm tra chặt chẽ nhằm đảm bảo chất lượng dịch vụ y tế và giáo dục.

- Trong việc thực hiện chính sách y tế công, phát triển hệ thống bảo hiểm y tế, việc xác định rõ chi phí cho gói dịch vụ y tế cơ bản, đồng thời tạo ra nhiều gói dịch vụ bảo hiểm khác nhau từ đó tạo cho người dân có nhiều lựa chọn hơn. Để vận hành được bảo hiểm y tế có hiệu quả, tránh lạm dụng trong khám chữa bệnh, Nhà nước thiết lập và hoàn thiện hành lang pháp lý tổ chức giám sát đánh giá chất lượng độc lập, đưa hệ thống y tế và bảo hiểm y tế vận hành theo nguyên lý thị trường.

Đào Mạnh Hoàn

 Viện Khoa học tổ chức nhà nước

 

Tài liệu tham khảo:

1. Chu Tuấn Tú. Hệ thống tổ chức chính quyền Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ.

2. Dự án Hỗ trợ xây dựng tầm nhìn và lộ trình thực hiện tầm nhìn của Chính phủ Việt Nam. Tháng 10/2012. Báo cáo khảo sát “Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong quản lý phúc lợi xã hội ở Hoa Kỳ".

3. Lê Hoàng Việt Lâm. Nền giáo dục Mỹ và một số vấn đề gợi mở cho giáo dục đại học ở Việt Nam. Trường Đại học An ninh nhân dân TP. Hồ Chí Minh.

4. http://vietnamese.vietnam.usembassy.gov